LUẬT thường nghiệm, nhưng nó không thấy sự TẤT YẾU của những quy
luật ấy.
(3) Theo nghĩa rộng, những thực thể như THƯỢNG ĐẾ cũng là
những đối tượng của kinh nghiệm. Nghĩa này có rất nhiều nguồn suối:
chẳng hạn, HTHTT xem “kinh nghiệm” như được trải qua với bất kỳ đối
tượng nào của ý thức, và tuyên bố của Goethe rằng dù “kinh nghiệm”
[thường nghiệm] (Empirie) thường tương phản với “lý thuyết” (Theorie),
vẫn có một loại kinh nghiệm đã được tinh lọc đồng nhất rất mật thiết với
đối tượng mà nó đã nâng lên đến cấp độ lý thuyết. Tuy vậy, lập luận trung
tâm của Hegel là: Hume và Kant phân biệt sự khái niệm hóa chính đáng các
chất liệu cảm tính được chứa đựng trong các khoa học tự nhiên với sự áp
dụng các khái niệm vào cho các thực thể siêu việt như THƯỢNG ĐẾ.
Nhưng phân biệt này là tùy tiện. Thượng Đế được các nhà thần học duy lý
trình bày như siêu việt thể, họ định đề hóa một vực thẳm giữa Thượng Đế
và thế giới phàm trần. Nếu ta bác bỏ quan niệm không nhất quán này, thì
việc kinh nghiệm về Thượng Đế sẽ chỉ là áp dụng nhiều tư tưởng hay khái
niệm hơn vào cho kinh nghiệm của ta về thế giới trần tục. Kant và các nhà
duy nghiệm đã tìm cách ấn định một ranh giới lên tư tưởng của ta.
Bất chấp sự mở rộng này của khái niệm về kinh nghiệm, đối với
Hegel, kinh nghiệm vẫn khác biệt với tư duy, nhất là tư duy triết học TRỪU
TƯỢNG, vì kinh nghiệm theo cả ba nghĩa trên đều chứa đựng kinh nghiệm
theo nghĩa (1) theo cách mà tư tưởng thuần túy không làm được. Tư tưởng
tiền giả định kinh nghiệm nếu nó không muốn bị nghèo nàn và xơ cứng đi,
giống như triết học thời đầu. Nó không tiền giả định trước hết về kinh
nghiệm riêng của triết gia, cho bằng hoạt động của các nhà khoa học
thường nghiệm, các sử gia, nhà thần học, v.v., những người tiến hành xử lý
chất liệu thường nghiệm thành kinh nghiệm theo nghĩa (2), và đôi khi theo
nghĩa (3), thì đã là gặp gỡ triết gia ở nửa đường rồi. Sau đó, triết gia tiếp
thu
các
kết
quả
của
các
khoa
học
thường
nghiệm
(Erfahrungswissenschaften) và chỉ ra chúng là tiên nghiệm (a priori) và tất