hồn]”. Đôi lúc Hegel dùng từ này để chỉ “in dấu ấn [cái gì đó] vào [cái gì
đó]”, mặc dù khi ấy trí tưởng tượng rõ ràng là không hoạt động một cách
minh nhiên. (Schelling thường dùng einbilden với nghĩa “thấm nhuần”, và
nối kết trí tưởng tượng với năng lực của nghệ sĩ trong việc thấm nhuần cái
thực tồn hay cái đặc thù bằng cái LÝ TƯỞNG hay cái PHỔ BIẾN). Nhưng
trong thời ông, cũng như thời nay, nó thường xuất hiện trong hình thức
phản thân, sich einbilden, và có nghĩa là “tưởng tượng”. Einbildung là “sự
tưởng tượng”, và Einbildungskraft là “năng lực tưởng tượng” hay “trí
tưởng tượng”. Kant phân biệt trí tưởng tượng tác tạo (productive
Einbildung) và trí tưởng tượng tái tạo (reproductive Einbildung): Trí tưởng
tượng tái tạo hình thành các hình ảnh (Bilde) về các đối tượng đã được tri
giác và nối kết chúng dựa theo các quy luật của sự liên tưởng. Trí tưởng
tượng tác tạo có hai chức năng: (a) Nó bắc cầu giữa cảm năng và GIÁC
TÍNH; nó thống nhất “cái đa tạp của TRỰC QUAN” và vì thế làm cho
KINH NGHIỆM có thể có được; (b) nó biến đổi một cách sáng tạo chất
liệu của tự nhiên thành các tác phẩm nghệ thuật.
4. Phantasie (thêu dệt, tưởng tượng), xuất phát từ chữ Hy Lạp
phantasia (tưởng tượng, năng lực tri giác các hiện tượng), là từ thông
thường để chỉ, chẳng hạn, một “trí tưởng tượng sống động”. Các triết gia
(như Schelling) thường dùng từ này thay thế qua lại cho chữ
Einbildung(skraft). Trong trường hợp cần phải phân biệt chúng, thì
Phantasie thường là quan năng cao hơn, sáng tạo hơn. Chẳng hạn Jean Paul
xem Einbildungskraft chỉ đơn giản là trí tưởng tượng tái tạo và liên tưởng
(loài vật cũng có năng lực này, vì chúng biết mơ và biết sợ cái gì đó), trong
khi Phantasie “biến mọi bộ phận thành một cái toàn bộ... nó toàn bộ hóa
mọi thứ, mang cái tuyệt đối và cái vô hạn của lý tính lại gần nhau hơn và
sống động hơn trước những con người khả tử” (MH, §§6, 7). Hegel cũng
phân biệt năng lực tưởng tượng (Einbildungskraft) thụ động (tức trí tưởng
tượng tái tạo và liên tưởng cơ giới) với trí tưởng tượng (Phantasie) sáng
tạo, nghệ thuật, nhưng ông thường dùng những chữ này thay thế qua lại.
Các dịch giả đôi khi phân biệt chúng là “năng lực tưởng tượng”