lý tính công cộng và quyền lực với tính riêng tư, bất tất và lệch lạc của
Meinung. Do đó. “sự độc lập của công luận là điều kiện hình thức đầu tiên
của bất kỳ điều gì lớn lao và hợp lý tính trong đời sống cũng như trong
khoa học (...) Công luận chứa đựng mọi loại sai lầm và mọi loại chân lý, và
cần có một vĩ nhân để tìm thấy chân lý trong nó” (THPQ, §316-18).
Bùi Văn Nam Sơn dịch
Luận chứng/Chứng minh [Đức: Beweis; Anh: proof]
Weisen, ban đầu là “làm cho biết” (wissend), có nghĩa là “truyền đạt
kiến thức bằng cách cho thấy, chỉ dẫn, cho biết, nêu trường hợp”. Thế kỷ
XV nảy sinh chữ beweisen (“cho thấy là đúng thật hay đúng đắn, chứng
minh”) và Beweis (“bằng chứng, luận cứ chứng minh”). Từ thế kỷ XVII,
những từ này được các nhà toán học [Đức] sử dụng, thay cho demonstrare,
demonstratio của tiếng La-tinh và apodeiknunai, apodeixis của tiếng Hy
Lạp, đều có nghĩa là “chứng minh”, “phép chứng minh”, theo nghĩa rút một
mệnh đề ra từ một hay nhiều mệnh đề đã được thừa nhận là đúng, bằng một
phương pháp thao tác đảm bảo được giá trị chân lý của mệnh đề được rút ra
như thế.
Những luận chứng [hay phép chứng minh] mà Hegel quen thuộc nhất
là (1) những phép chứng minh của hình học Euclide, và (2) những luận
chứng truyền thống chứng minh về sự hiện hữu của THƯỢNG ĐẾ, mà vào
thời Hegel, qua Kant, chúng bị thu hẹp lại chỉ còn ba: luận chứng vũ trụ
học, luận chứng mục đích luận và luận chứng bản thể học. Hegel thường
nhắc đến luận chứng thứ tư, luận chứng ex consensu gentium (từ sự đồng
thuận của mọi người), nhưng lại tỏ ra ít quan tâm đến luận chứng luân lý
của Kant, một phần là vì ông bác bỏ quan niệm về LUÂN LÝ làm cơ sở
cho luận chứng ấy.