là không đúng thật (theo nghĩa của Hegel về “đúng thật”/“wahr”/ Anh:
“true”).
Hegel nhìn những mâu thuẫn mà ông đã định đề hóa trong tư tưởng và
trong sự vật như những mâu thuẫn theo nghĩa truyền thống. Dù vậy vẫn có
chỗ cho sự nghi ngờ không biết điều ấy có đúng vậy không. Thi thoảng,
ông thẳng thừng bác bỏ những quan niệm, chẳng hạn như quan niệm về
một “khái niệm đa hợp”, bằng cách không xem chúng là mâu thuẫn mà như
là một mâu thuẫn trong thuộc từ/contraditio in adjecto, chẳng hạn như “sắt
làm bằng gỗ” (hay “vòng tròn vuông”). Trong Khoa học Lô-gíc, nghiên cứu
của ông về mâu thuẫn theo sau những nghiên cứu về sự KHÁC BIỆT và
đối lập, gợi ra rằng ông xem mâu thuẫn như một sự đối lập cao độ: không
nhà Lô-gíc học hình thức nào cần phải phủ nhận rằng thế giới chứa đựng
những đối lập cao độ. Hơn nữa, ví dụ của ông, nhất là về những mâu thuẫn
khách quan, thường rất ít tương đồng với những mâu thuẫn Lô-gíc học hình
thức. Đối với phần lớn những mâu thuẫn khách quan, chúng là những xung
đột bên trong do những sự dính líu của vật này với vật khác gây ra. Những
mâu thuẫn chủ quan thường là kết quả của một nỗ lực cố duy trì những khái
niệm tách biệt nhưng lại phụ thuộc lẫn nhau về mặt khái niệm, chẳng hạn
những khái niệm về nguyên nhân và kết quả. Nhưng thi thoảng, một hệ
thống khái niệm đã bị cắt xén, hữu hạn cũng làm nảy sinh một “mâu thuẫn”
thú vị hơn: nếu tôi chỉ sử dụng những thuật ngữ chỉ những đặc tính nhất
định thuộc về những phạm vi mà các thành viên của nó loại trừ lẫn nhau
(chẳng hạn, đỏ, xanh, v.v.; phẳng, tròn, v.v.) thì khi tôi ý thức, vừa đồng
thời vừa liên tiếp, về một số những đặc tính ấy, tôi có thể mô tả BẢN
THÂN hay ý thức của chính mình bằng những thuật ngữ ấy một cách hoàn
toàn mâu thuẫn (ví dụ: “tôi vừa đỏ vừa xanh (và không đỏ cũng không
xanh)”; để tránh điều này, tôi phải du nhập khái niệm về tồn tại CHO
MÌNH, tức cái siêu vượt khỏi tính quy định của DASEIN (“TỒN TẠI
NHẤT ĐỊNH”), như Hegel đã làm trong bộ KHLG.