Vì thế, những mâu thuẫn chủ quan là dễ chấp nhận hơn những mâu
thuẫn khách quan. Nhưng, đối với Hegel, cả hai, về bản chất, là phụ thuộc
lẫn nhau. Theo quan niệm của ông, không có sự phân biệt rạch ròi nào giữa
tư tưởng và thế giới. Tư tưởng và khái niệm được bện chặt vào trong thế
giới, và nhiều khái niệm được Lô-gíc học truyền thống dành riêng để mô tả
tư tưởng và lời nói của ta - “PHỦ ĐỊNH”, “CHÂN LÝ”, “PHÁN ĐOÁN”,
“SUY LUẬN”, v.v. - theo Hegel, đều có một nghĩa khách quan có thể áp
dụng vào cho các sự vật. Thế nên, những sự vật hữu hạn hiện thân cho
những khái niệm hữu hạn và những mâu thuẫn của chúng là đặc tính trung
tâm của THUYẾT DUY TÂM Hegel. (Quan niệm truyền thống thường
được đưa ra để phê phán Hegel rằng một mệnh đề mâu thuẫn sẽ dẫn đến bất
kỳ mệnh đề nào khác ngày nay đã bị “Lô-gíc học tương quan/quan yếu”
(relevance logic) bác bỏ.)
Hoàng Phú Phương dịch
Mục đích và Hợp mục đích (tính) [Đức: Zweck und
Zweckmässigkeit; Anh: purpose and purposiveness]
Nguyên nghĩa của từ Zweck là điểm hồng tâm của cái bia, và do đó là
cái gì đó được ngắm, tức là mục tiêu (Ziel). Nó tương ứng với chữ “mục
đích” hay “cứu cánh, đích” và tương ứng với chữ telos trong tiếng Hy Lạp.
Tính từ zweckmässig không nhất thiết phải ngụ ý rằng cái gì đó được dành
cho một mục đích, mà chỉ muốn nói rằng nó phục vụ một mục đích hay “có
ích, có lợi”, v.v. Nhưng đối với Kant, trong PPNLPĐ, một thực thể mang
tính zweckmässig khi, và chỉ khi, sự tồn tại và bản tính của nó không thể
được giải thích ngoại trừ bằng “quan hệ nhân quả dựa theo các KHÁI
NIỆM”. Đặc điểm này của một thực thể là Zweckmässigkeit (“tính hữu ích,
tính hợp mục đích, MỤC ĐÍCH LUẬN”). Vì thế, cái gì đó là zweckmässig
không phải khi nó phục vụ một Zweck mà khi nó chỉ có thể được coi là