Ästhetik, vì nó chỉ nhấn mạnh đến cái CẢM TÍNH và XÚC CẢM, tuy vậy
ông vẫn dùng từ này làm nhan đề cho loạt bài giảng của mình. (Xem: “Các
bài giảng về Mỹ học”). (Hegel cũng bác bỏ một thuật ngữ khác được đề
nghị, đó là Kallistik (“nghiên cứu về cái đẹp” - từ chữ Hy Lạp kalos, kallos,
“đẹp”, “cái đẹp”, bởi nó bàn về cái đẹp nói chung, chứ không giới hạn vào
cái đẹp của nghệ thuật như cách hiểu của Hegel).
Ở nước Đức của Hegel lúc bấy giờ, mỹ học được thống trị bởi tác
phẩm PPNLPĐ của Kant. Đối lập lại với thuyết vị lợi, thuyết khoái lạc và
thuyết duy trí, Kant cho rằng cái đẹp làm nảy sinh một sự vui sướng
“không được quan tâm”, bắt nguồn từ trò chơi tự do của trí tưởng tượng
của ta; cái đẹp là “không-có tính khái niệm”; có “hình thức của tính MỤC
ĐÍCH mà không có sự hình dung về mục đích”; và là “đối tượng của một
sự vui sướng phổ biến”. Cái đẹp nảy sinh từ năng lực PHÁN ĐOÁN
(Urteilskraft/Anh: faculty of judgment) trong sự liên kết với cảm xúc. Ta du
nhập ý niệm về cái đẹp của ta vào trong thế giới vốn không phải là đẹp một
cách cố hữu, và ta xem cái đẹp như là một biểu trưng của cái thiện LUÂN
LÝ.
Sau Kant, mỹ học trở thành trung tâm của triết học Đức. Trước hết,
Schiller, nhất là trong GDTN (một tác phẩm được Hegel rất ngưỡng mộ),
cho rằng cái đẹp là khách quan và việc chiêm ngưỡng nó sẽ điều trị được sự
THA HÓA đang gây khổ đau cho con người hiện đại, điều chỉnh những sự
phân ly giữa con người và tự nhiên, giữa người với người, và giữa lý tính
và ham muốn. Sau đó là học thuyết của Fichte, cho rằng thế giới hiện tượng
chỉ được tạo ra bởi hoạt động (TỰ DO, nhưng lại TẤT YẾU) của cái Tôi,
cho thấy một sự song hành với hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ. Đặc
biệt, Schelling trong DTSN, phát triển sự song hành này và cho rằng “hòn
đá tảng” của triết học chính là triết học về nghệ thuật: nghệ thuật trung giới
tinh thần và tự nhiên, bởi hoạt động nghệ thuật kết hợp tính sáng tạo tự do,
có mục đích của tinh thần với tính sáng tạo tất yếu, vô ý thức của tự nhiên.