Ngoại tại hóa (sự) [Đức: Entäußerung; Anh: alienation] → Xem:
Tha hóa và Xuất nhượng/Ngoại tại hóa (sự) [Đức: Entfremdung und
Entäußerung; Anh: alienation and estrangement]
Ngôn ngữ [Đức: Sprache; Anh: language]
Hầu hết các tác phẩm của Hegel đều có các bình luận về ngôn ngữ, và
trên hết, trong lối viết của mình ông rất ý thức đến ngôn ngữ ông dùng và
quan hệ của nó với ngôn ngữ thông thường, điều mà chúng ta không thấy ở
Kant. (Herder và Hamann phê phán Kant là không chú ý đến ngôn ngữ).
Tuy nhiên, ngôn ngữ lại có một vị trí rõ ràng là tương đối nhỏ trong hệ
thống của Hegel. Có vài lý do cho điều này: (1) Ngôn ngữ, giống như phép
biện chứng (mà Hegel cũng ít dành cho sự quan tâm minh nhiên), gắn liền
với toàn bộ triết học, và vì thế không dễ gì quy nó vào một bộ phận đặc biệt
nào của triết học được. (2) Theo quan niệm của Hegel, một câu hỏi được
nhiều triết gia quan tâm (Rousseau, Herder, Fichte, v.v.), tức câu hỏi về
ngôn ngữ ra đời như thế nào, là không thể trả lời, vì LỊCH SỬ tiền giả định
việc chép sử, và điều này lại tiền giả định ngôn ngữ. Lịch sử quan tâm đến
các sản phẩm lịch sử của TINH THẦN, chứ không quan tâm đến ngôn ngữ,
tức sự diễn đạt trực tiếp của tinh thần nằm trong tất cả những sản phẩm ấy.
(3) Câu hỏi nữa được quan tâm hiện nay là về những sự khác nhau và giống
nhau của các ngôn ngữ, nhưng đây không phải là quan tâm chính của
Hegel, vì nó là một vấn đề dành cho việc nghiên cứu thường nghiệm (giống
như nghiên cứu của W. von Humbolt), và vì Hegel quan tâm nhiều hơn đến
các phạm trù lô-gíc học được hiện thân, ít nhiều trọn vẹn và minh nhiên,
trong tất cả các ngôn ngữ.
Ngôn ngữ được xem xét trong BKT III §458-64 dưới các đề mục trí
TƯỞNG TƯỢNG và KÝ ỨC: ngôn ngữ xuất hiện (nhưng không nhất thiết
trong lịch sử) từ nỗ lực của cái BÊN TRONG, [tức là] cái “hốc” (Schacht)
tối tăm của trí tuệ (Intelligenz), nhằm tìm ra một sự hiện thân đầy đủ, khách