TỪ ĐIỂN TRIẾT HỌC HEGEL - Trang 333

mối quan hệ giữa tác động và phản tác động, hay, rõ hơn của sự tương tác,
trong đó hai hay nhiều bản thể tương tác với nhau bằng cách những trạng
thái của bản thể này vừa là nguyên nhân và kết quả của những trạng thái
của cái kia. Như thế, nguyên nhân và kết quả được đưa vào trong mối quan
hệ tương hỗ, mật thiết đúng theo đòi hỏi của mối quan hệ hình thức hay lô-
gíc của chúng, một mối quan hệ gần gũi hơn với tính tuần hoàn của sự vô
tận đúng thật hơn là với sự quy thoái vô tận tồi.

Theo Hegel, tính ưu việt về mặt lô-gíc của sự tương tác là thích hợp

hơn để hiểu những hiện tượng cấp cao, chẳng hạn các hiện tượng sinh học
và xã hội, hơn là tính nhân quả một chiều. Những cơ quan khác nhau của
một sinh vật, hay những tập tục và định chế chính trị của một DÂN TỘC,
rõ ràng tác động lẫn nhau một cách tương hỗ hơn là cái này chỉ đơn giản là
kết quả của cái kia. Giải thích x bằng y, và y bằng x, do dù đúng đi nữa,
cũng không thể mang lại một sự giải thích thỏa đáng cho cả y lẫn x. Điều
cần có ở đây là một đơn vị thứ ba bao hàm cả x và y, đó chính là KHÁI
NIỆM về thực thể ấy, chẳng hạn, sinh thể hay xã hội, trong đó x và y là các
phương diện.

Bùi Văn Nam Sơn dịch

Nhìn nhận/Thừa nhận/Công nhận (sự) [Đức: Anerkennung; Anh:

recognition and acknowlegement]

Danh từ Anerkennung và động từ anerkennen trong tiếng Đức trùng

lấp nghĩa của “recognition”“to recognize”, và của “acknowledgement”
“to acknowledge” trong tiếng Anh, nhưng không trùng khít với cặp nào
cả. Động từ anerkennen là một cấu tạo từ của thế kỷ XVI, dựa trên mẫu của
động từ tiếng La-tinh agnoscere (nhận ra, công nhận), đồng thời dựa trên
nghĩa pháp lý (thế kỷ XIII) của động từ erkennen (“phán quyết”, “thấy” (ví
dụ ai đó có tội)), chứ không dựa trên nghĩa cũ hơn, lâu đời hơn của từ đó là

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.