Chữ tiếng Đức bản địa cho sự phân loại hay phân chia là Einteilung
(trong khi từ Đức gốc La-tinh là Klassifikation hay Klassifizierung), từ
động từ einteilen (phân chia, phân loại). Từ này thường được Hegel dùng
để chỉ loại hình phân loại sinh vật học lẫn những loại hình phân loại thường
nghiệm khác, và cả sự phân chia một khái niệm trong triết học. Việc phân
loại gồm 3 điều: 1) một giống/chi (Gattung/Anh: genus) hay khái niệm
chung sẽ phải được phân chia - chẳng hạn thú vật; (2) một nguyên tắc phân
loại (Enteilungsgrund) - chẳng hạn, nơi cư trú thông thường của thú vật là
trên cạn, dưới nước hoặc trong không trung; và (3) các thành viên của sự
phân loại (Enteilungsglied, Enteilungsglieder) nảy sinh từ việc áp dụng
nguyên tắc phân loại cho giống - chẳng hạn, thú vật trên cạn, chim, cá.
Những giống được phân chia nhỏ hơn thường được gọi là “loài” (Art,
Arten/Anh: species). Nhưng giống và loài là những thuật ngữ tương đối:
một lớp (class) được xem như một giống trong quan hệ với những loài thấp
hơn nó, nhưng lại được xem như một loài trong quan hệ với lớp rộng hơn
nó, cùng với những loài đồng đẳng khác, là một sự phân chia nhỏ hơn.
(Tiếng Đức, giống như tiếng Anh, có nhiều thuật ngữ để chỉ giống và loài,
nhưng chữ Gattung và Art là thường được Hegel sử dụng nhất). Đặc điểm
dị biệt hóa loài này với loài khác thuộc cùng một giống là “sự khác biệt về
loài” (Artunterschied) nhưng đặc điểm này thường được gọi là một
Merkmal, tức một đặc điểm hay đặc tính phân biệt. Theo truyền thống, định
nghĩa về một loài vừa biểu thị giống mà nó thuộc về, vừa biểu thị sự khác
biệt về loài của riêng nó: chẳng hạn cá là thuộc giống sinh vật nhưng thuộc
loài sống dưới nước.
Hegel bàn về sự phân loại này ở nhiều chỗ, nhưng rõ nhất là trong
KHLG, trong mục “Phán đoán phân đôi” và mục “NHẬN THỨC
(Erkennen) tổng hợp”. Những vấn đề khiến ông bận tâm là: sự phân loại có
thể được tiến hành theo một trong hai cách. Cách thứ nhất, ta có thể tiến
hành một cách thường nghiệm hay hậu nghiệm: khảo sát những đặc điểm
của cái cá biệt này rồi đến cái cá biệt khác, rồi từ sự quan sát quy nạp thành
những loài tập hợp những cái cá biệt ấy, và cuối cùng xếp các nhóm loài ấy