nghiệm, tổng hợp, v.v., chứ không phải cả hai cùng với nhau (xem BKT I
§12).
Một trong những sự lưỡng phân được Hegel ra sức vượt qua là sự
lưỡng phân giữa tính chủ quan và tính khách quan hay giữa tư duy và sự
vật. Triết học, theo truyền thống, thường phân biệt giữa các thuật ngữ được
áp dụng cho sự vật (“tồn tại”, “nhân quả”, v.v.) và các thuật ngữ được áp
dụng cho tư tưởng hay diễn ngôn của ta: “chân lý”, “biện chứng”, “mâu
thuẫn”, “khái niệm”, “phán đoán”, “suy luận”, v.v. Một đặc điểm nổi bật
của việc tái cấu trúc ngôn ngữ của Hegel là việc ông chuyển trao toàn diện
những thuật ngữ chủ quan vào trong lĩnh vực khách quan: sự vật, cũng như
khái niệm, đều có thể là “đúng thật”, “mâu thuẫn”, “phán đoán”, v.v. Sự
chuyển trao này có những tiền lệ, chẳng hạn, trong thuyết Plato-mới và
Böhme, cũng như trong việc áp dụng hàng ngày từ “hợp lý”
(vernünftig/Anh: “rational”) cả cho tư tưởng lẫn cho sự kiện khách quan.
Chỉ có điều, Hegel tiến hành việc làm này một cách có hệ thống và tự giác
hơn nhiều so với các vị tiền bối. Đó là hệ quả của một chủ trương trung tâm
trong “thuyết duy tâm” của ông, của niềm tin rằng tư tưởng không tách biệt
với sự vật, trái lại, thấm đẫm ở trong sự vật và chịu trách nhiệm đối với bản
tính và sự phát triển của sự vật.
KẾT LUẬN
Những tình tiết phức tạp trong tiếng Đức của Hegel khiến cho ngay cả
người bản ngữ cũng thấy khó giải tỏ. Nhưng, những khó khăn ấy càng nhân
lên bội phần đối với người sử dụng tiếng Anh. Một từ tiếng Đức quan trọng
thường có một dãy nghĩa và cách sử dụng mà không có một từ tiếng Anh
duy nhất nào có thể tương ứng một cách chính xác được: chẳng hạn, từ
Bestimmung (“sự quy định”/Anh: “determination”) vừa chỉ hiện trạng của
sự vật, vừa chỉ “đích đến” và “vận mệnh” tương lai của nó. Ngay cả khi
một từ tiếng Đức có được một từ tiếng Anh tương đương có thể chấp nhận