biến (THPQ, §279A). Sự tự đặc thù hóa của cái phổ biến vì thế có sự áp
dụng vào lịch sử cũng như vào hệ thống của Hegel.
Hoàng Phú Phương dịch
Phản tư/Phản chiếu/Phản tỉnh (sự) [Đức: Reflexion; Anh:
reflection]
Trong tiếng La-tinh, reflectere và reflexio có nghĩa là “quay ngược lại”
và “hướng về lại”. Animum reflectere, nghĩa đen là “hướng về tâm trí”, ban
đầu có nghĩa “hướng tâm trí của ta hay của người khác ra khỏi, can ngăn
(trước một hướng hành động)”, nhưng về sau lại có nghĩa “xoay tư tưởng
của ta đến, suy nghĩ lại về một điều gì đó”. Ở thế kỷ XVI và XVII, các chữ
này sinh ra động từ relektieren (“phản tư”) và danh từ Reflexion trong tiếng
Đức. Các chữ này có ba nghĩa chính, có được từ các nguồn gốc La-tinh của
chúng trong thời Trung đại:
(1) Hướng về lại hay phản chiếu, chẳng hạn âm thanh, sức nóng, và
nhất là ánh sáng; do đó phản chiếu hay chiếu rọi một đối tượng bằng cách
phản chiếu các sóng ánh sáng từ nó. Danh từ Reflexion vừa là một tiến trình
phản chiếu vừa là sản phẩm của nó, tức một hình ảnh được phản chiếu.
(2) Phản tư về, xem xét lại về một vấn đề. Theo nghĩa này, những từ
gần tương đương là nachdenken (“nghĩ lại, nghĩ về, phản tư”) và überlegen,
Überlegung (“suy xét, sự suy xét”).
(3) Hướng những tư tưởng hay sự chú ý của ai đó từ các đối tượng về
lại chính mình, để phản tư về chính mình. Ở Locke và Leibniz, “sự phản
tư” là sự tri giác về chính mình hay sự chú ý đến điều gì ở “trong ta”.
(Hegel thường sử dụng Reflexion và reflektieren trong sự gắn liền với
các MỐI QUAN HỆ: chẳng hạn như tự-ĐỒNG-NHẤT là “quan hệ
(Beziehung) với chính mình, không như là quan hệ TRỰC TIẾP, mà như là