ĐẶC THÙ được cho, trong khi “năng lực phán đoán xác định” tìm kiếm
một cái đặc thù để thâu gồm vào dưới một quy tắc hay cái phổ biến đã có.
Reflexion cũng giữ một vai trò trong Fichte. Cái Tôi có hai động lực vừa
tiền giả định vừa đấu tranh lẫn nhau: một động lực có tính thực hành để
“làm đầy cái vô hạn” và một động lực để “phản tư về chính mình”. Mỗi
một động lực này giới hạn cái kia và sự tương tác xung đột lẫn nhau giữa
chúng sinh ra xúc cảm về sự tất yếu hay sự cưỡng bách đi kèm các biểu
tượng về thế giới giả định bên ngoài, tương phản với các tưởng tượng của
ta. Fichte xem sự phản tư về chính mình dựa vào sự phản chiếu của ánh
sáng: khuynh hướng có tính phản tư được phản chiếu/phản tư trở lại điểm
mà tại đó động lực có tính thực hành bị giới hạn.
Trong các tác phẩm thời kỳ đầu, đặc biệt là cuốn KBFS [Sự dị biệt
giữa hệ thống của Fichte và của Schelling về triết học] và cuốn TVB [Tin
và Biết], Hegel đề cập nhiều đến Reflekxion như một phương pháp của triết
học và đến Reflekxionsphilosophie (“triết học phản tư”), mà theo ông, đã
đạt đến đỉnh cao của nó trong tư tưởng của Kant, Jacobi và Fichte. Các đặc
điểm của Reflekxion là (1) nó không đơn giản chấp nhận những gì “được
cho” và những lối nhìn không có tính phản tư về chúng, trái lại, phải phản
tư về chúng; (2) nó RÚT RA từ chúng các cặp tương phản của các khái
niệm tổng quát, hay những mặt ĐỐI LẬP, và cố giữ chúng tách rời nhau:
chẳng hạn giữa lòng tin và lý tính, hữu hạn và vô hạn, chủ thể và khách thể;
và (3) do đó, nó quan niệm về chính mình hay về CHỦ THỂ phản tư là tách
biệt và ở bên ngoài (các) đối tượng được phản tư. Theo nghĩa này,
Reflexion có họ hàng thân thuộc với GIÁC TÍNH, và được đối lập với,
chẳng hạn, TRỰC QUAN, ĐỨC TIN và sự TƯ BIỆN. Nó không thể đối xử
đúng mực đối với cái TUYỆT ĐỐI, vì nó tự khép mình vào các hình thức
HỮU HẠN của NHẬN THỨC: nó áp đặt những sự giới hạn
(Beschränkungen) lên trên cái tuyệt đối, bằng cách khẳng định rằng, chẳng
hạn, cái tuyệt đối là VÔ HẠN chứ không phải hữu hạn. Hegel thường quy
Reflexion thuộc loại này là “Phản tư BÊN NGOÀI (äussere hay äusserliche
Reflexion).