Danh từ Bestimmung (trong thế kỷ XVII) biểu thị cả tiến trình xác
định cái gì đó (với mọi nghĩa của bestimmen) lẫn kết quả của tiến trình ấy.
(Theo nghĩa sau thì Bestimmung thường khó phân biệt với Bestimmheit
theo nghĩa là một “đặc điểm xác định”). Nhưng Bestimmung còn có sự hàm
hồ khác nữa, và có hai nghĩa rộng:
1. “Sự quy định”, theo các nghĩa như (a) “sự phân định [ranh giới],
ĐỊNH NGHĨA”; (b) làm cho một khái niệm hay sự vật trở nên xác định
hơn bằng cách thêm vào cho nó những đặc điểm, hoặc bằng (những) đặc
điểm đã được thêm vào như thế; (c) tìm ra vị trí của cái gì đó; (d) (ở dạng
số nhiều) những điều khoản hay quy định pháp lý. Việc thêm selbst (“tự,
mình”) mang lại Selbstbestimmung, “sự tự-quy-định”, tức sự PHÁT
TRIỂN tự trị hay tự vận hành của cái gì đó, chẳng hạn Ý CHÍ, tương phản
với sự quy định của nó bởi các lực bên ngoài. (Bestimmung, giống như
những nghĩa khác của bestimmen, không bao giờ có nghĩa là “kiên quyết”
hay “sự cố định của mục đích”).
2. “Đích đến, vận mệnh, sứ mệnh, thiên chức”. Có một Bestimmung
đối với một chức vụ cao, có nghĩa là một người phải không những đang
trên đường nhắm đến một chức vụ cao, mà còn được trù định sẵn cho nó,
sao cho việc đạt được mục đích sẽ thể hiện BẢN TÍNH đúng thật của người
ấy. “Bestimmung của con người” vì thế là MỤC ĐÍCH tối hậu hay vận
mệnh (Anh: destiny) của con người nói chung, tức cái mang lại ý nghĩa cho
sự hiện hữu của mình. Nhiều tác phẩm của thời kỳ này có tiêu đề này, nổi
bật nhất là cuốn SMCN của Fichte. Thế nên, Bestimmung có những sắc thái
tôn giáo.
Hegel sử dụng động từ bestimmen [quy định] xuyên suốt những tác
phẩm của ông, và trong vô số ngữ cảnh và ý nghĩa. Trong KHLG,
“Bestimmheit [tính quy định] (CHẤT)” là tiêu đề của phần “Học thuyết về
Tồn tại”; ở đây Bestimmheit là một thuật ngữ chung chỉ “tính quy định về
chất”, tương phản với “LƯỢNG” và “HẠN ĐỘ”, là những tiêu đề tương