quy định nhờ đơn độc dựa vào sự hiện hữu được quy định hay sự hiện hữu
nhất định của nó, chứ không phải nhờ vào mối quan hệ của nó với trạng
thái bên trong hay với tính tiềm năng.
Một con người còn có nhiều đặc tính không phụ thuộc vào bản tính
bên trong của họ, nhưng phụ thuộc vào những phương diện “tự nhiên” và
“cảm tính” của mình và vào những sự chạm trán tình cờ với những sự vật
khác. Đó là Beschaffenheit [tính cách] của con người, tức những đặc tính
bề ngoài và khả biến tương phản với bản tính bên trong bất biến của họ.
Theo nghĩa tổng quát, chúng cũng là một Bestimmheit (tính quy định),
nhưng không phải, ít ra là lúc đầu, là Bestimmung (sự quy định) của mình.
Nhưng, việc thực hiện trọn vẹn Bestimmung (sự quy định) của họ bao hàm
việc hấp thu tính cách [Beschaffenheit] của họ vào trong sự quy định ấy:
một người có thể làm cho những phương diện tự nhiên và cảm tính của
mình thấm nhuần bằng tư tưởng, và trong chừng mực nào đó, có thể kiểm
soát những chạm trán của mình với những thực thể khác hay tận dụng
chúng cho những mục đích thuần lý của riêng mình.
Hegel còn liên hệ sự phân biệt giữa Bestimmheit (tính quy định) và
Bestimmung (sự quy định) với hai sự sử dụng về từ reell (thực tồn/thực sự):
một “người thực sự” vừa có tính quy định của một con người, chẳng hạn
tương phản với một bức tượng, vừa là một người thực hiện trọn vẹn sự quy
định (hay KHÁI NIỆM) của một con người, tức là người biết suy nghĩ và
hành động một cách có lý tính.
Không chỉ con người mới có sự quy định: sự quy định hay vận mệnh
của những sự vật HỮU HẠN (tương phản với con người) là sự cáo chung
hay kết liễu của chúng. Sự quy định, chẳng hạn, của một chất a-xít, tương
phản với tính quy định hiện thời của nó, là bị trung hòa bởi một chất kiềm.
Đặc biệt, thuật ngữ thường dùng của Hegel cho những khái niệm được xem
xét trong KHLG là những sự quy định (Bestimmungen) hay những quy định
tư duy (Denkbestimmungen). Nghĩa đầu tiên của thuật ngữ này là: chúng là