1. Ding có nhiều cách sử dụng:
(a) Đôi khi nó được dùng theo nghĩa tổng quát để chỉ các sự vật bất tất
nơi thế gian, kể cả TINH THẦN hữu hạn, tương phản với THƯỢNG ĐẾ
hay SỰ TẤT YẾU tuyệt đối (ví dụ: TTTĐ, XVI).
(b) Liên quan đến nghĩa này là cách sử dụng chữ Ding trong đó nó
tương phản với denken (TƯ DUY) hay Gedanke (TƯ TƯỞNG). Nhưng sự
tương phản này chỉ là sự tương phản giả tạo. (Các) tư tưởng tạo thành BẢN
CHẤT của các sự vật, và Hegel thấy sự nối kết vẫn được duy trì trong sự
tương tự của các từ ngữ: “Tư duy [das Denken] là vật tính [Dingheit], hay
vật tính là tư duy (HTHTT, VI.B.Iib). (Thực vậy, không có quan hệ thân
thuộc nào về từ nguyên giữa Ding hay “vật” với denken hay “tư duy”).
(c) Theo nghĩa hẹp hơn, Ding xuất hiện ra như là ĐỐI TƯỢNG của
TRI GIÁC trong HTHTT, II, và như là một SỰ QUY ĐỊNH của PHẢN TƯ
trong Lô-gíc học (BKT I, §§125 và tiếp). Coi cái gì đó là một Ding theo
nghĩa này chỉ là một trong nhiều cách xem xét: thay vào đó, ta có thể coi nó
là một LỰC biểu hiện chính mình chẳng hạn. Một vật nhất thiết phải có
nhiều thuộc tính đối ứng với các giác quan khác nhau của ta (xem trong
HTHTT). Khác với “cái gì đó” (Etwas) và CHẤT của nó, một vật có thể
thay đổi các thuộc tính của nó mà không bị mất đi sự HIỆN HỮU của
chính mình. Vì thế, nó “có” (“has”), hơn là “là” (“is”) các thuộc tính của
nó. Cái khó của việc giải thích tính thống nhất của sự vật do sự đa dạng của
các thuộc tính của nó dẫn đến tư tưởng rằng các thuộc tính là các CHẤT
LIỆU độc lập (ví dụ: nhiệt là chất nóng), thâm nhập vào nhau qua các lỗ
hổng. Hegel phản bác lý thuyết này cả trên cơ sở thường nghiệm lẫn trên cơ
sở khái niệm, chẳng hạn như ở BKT I §130 và BKT II §§305A., 334.
(d) Hegel thường gắn vật-tự-thân của Kant với Ding theo nghĩa (c),
tức là cái mang các thuộc tính, và cho rằng nó là bất khả tri chỉ vì, nếu ta
TRỪU TƯỢNG HÓA khỏi mọi thuộc tính (và mọi quan hệ) của một vật,
không có gì còn lại để được biết tới cả. Nhưng thường (và đúng với những