(Begriff) - vốn là chữ được ông gắn cả với những khởi đầu của điều gì đó
lẫn với sự phát triển đến đỉnh điểm của nó. Nhiều từ và tổ hợp từ trong
tiếng Anh cũng có các nghĩa đối lập: ví dụ như “to cleave (to)” [trung thành
(với)] (từ này về từ nguyên là hai từ khác nhau), “to betray [để lộ] (ví dụ
gốc gác của ai đó)”, “to dispose (of)” [vứt bỏ], “to go downhill” [xuống
dốc], và “mirror-image” [hình phản chiếu]. Nhưng ở đây không hề có nghĩa
triết học khái quát nào đáng kể cả.
Khi một từ có hai hay nhiều nghĩa, Hegel không phải lúc nào cũng coi
các nghĩa ấy có sức nặng như nhau trong tất cả (hay hầu hết) các trường
hợp ông sử dụng nó. Chữ Aufhebung đáp ứng cách xử lý này thành công
hơn hầu hết các chữ khác. Nhưng ngay cả khi nghĩa (1) nổi trội trong cách
sử dụng của Hegel, thì các nghĩa khác của nó cũng thường có mặt, tức là bị
thải hồi chứ không bị triệt tiêu hoàn toàn, và (2) ông có xu hướng nối kết
một cách có hệ thống các nghĩa khác nhau của nó, chẳng hạn trong “PHẢN
TƯ” và “PHÁN ĐOÁN” chẳng hạn.
Hegel gắn aufheben với một vài chữ khác: Vì thế khi cái gì đó bị thải
hồi (aufgehoben), thì nó mang tính Ý THỂ (ideell), được TRUNG GIỚI
(hay “được phản tư”), trái ngược với trực tiếp, và là một MÔ-MEN của cái
TOÀN BỘ, vốn là cái cũng chứa mặt đối lập của nó. Aufhebung tương tự
với sự PHỦ ĐỊNH nhất định vốn là sự phủ định có kết quả tích cực. Kết
quả từ sự thải hồi của cái gì đó, chẳng hạn như cái toàn bộ trong đó cả nó
lẫn mặt đối lập của nó tồn tại với tính cách là những mô-men, bao giờ cũng
cao hơn, hay là cái SỰ THẬT/CHÂN LÝ của những gì đã bị thải hồi. Vì
thế, cho dù Hegel có im lặng về vấn đề này, thì cũng có lý khi xem nghĩa
(1), “nâng cao”, như là một thành tố trong nghĩa Hegel của nó.
Giống như nhiều thuật ngữ khác của Hegel, Aufhebung áp dụng cho cả
khái niệm lẫn sự vật. Các khái niệm TỒN TẠI và HƯ VÔ được vượt bỏ
trong TỒN TẠI NHẤT ĐỊNH, và nói chung, những QUY ĐỊNH thấp hơn
trong Lô-gíc học được vượt bỏ trong những quy định cao hơn. Các giai