dụ như: HIỆN TƯỢNG của BẢN CHẤT được gesetzt, trong khi đó TỒN
TẠI NHẤT ĐỊNH thì lại không. Theo nghĩa 2, gesetzt và setzen thường
tương đương với từ “ĐƯỢC TRUNG GIỚI” (mediated/vermittelt) và
“trung giới” (to mediate/vermitteln). Việc thiết định như thế có thể mang
tính vật lý hoặc mang tính khái niệm: NGUYÊN NHÂN (về mặt vật lý)
thiết định kết quả, nhưng kết quả (về mặt khái niệm) thiết định nguyên
nhân. Cái gì đó có thể thiết định bản thân nó: trong chuỗi các giai đoạn của
TỰ NHIÊN, ví dụ như Ý NIỆM thiết định bản thân nó như là cái tồn tại tự
mình (BKT II, §251).
Setzen tạo thành nhiều từ ghép: một từ ghép quan trọng đối với Hegel
là voraussetzen, “tiền giả định, đòi hỏi phải có, giả định (một sự vật hay
một mệnh đề)”, nhưng nghĩa đen là “thiết định trước (voraus)”. Hegel dùng
một số chữ tiếng Đức cho nét nghĩa “tiền thiết định” và “tiền giả định” như
sau: Annahme (“sự chấp nhận, sự giả định”), Vorurteil (“tiền phán đoán,
tiền kiến”), nhưng chữ ưa dùng của ông là Voraussetzung, “(tiền) giả định,
giả định, đòi hỏi (tiên quyết), điều kiện (tiên quyết)”, nhưng nghĩa đen là
“việc thiết định trước, hay cái được thiết định trước”. (Chữ Hy Lạp đối ứng
với chữ voraussetzen và Voraussetzung của tiếng Đức là hypotithesthai và
hypothesis).
Hegel khổ tâm với vấn đề là triết học, khác với các ngành khoa học
khác, không có quyền nêu ra các giả định hay các tiền giả định, thế nhưng
nó lại không thể tránh khỏi việc giả định những khái niệm, mệnh đề, một
phương pháp tiến hành, v.v. nào đó (BKT I, §1). Một phần vấn đề là vấn đề
của THUYẾT HOÀI NGHI: Nếu tôi có thể giả định cái gì đó, mà không có
LUẬN CỨ CHỨNG MINH, thì người nào đó khác cũng có thể giả định
bằng sự phủ định hay cái đối lập của nó với sự chính đáng không kém.
Nhưng ngay cả ở chỗ thuyết hoài nghi không phải là một mối đe dọa hiển
nhiên, ví dụ như xét trường hợp những giả định có vẻ rất hiển nhiên như
“cái Tôi tư duy” của Descartes hay “Tôi là Tôi” của Fichte thì thật ra không
chỉ cần những giả định xa hơn (của một phương pháp tiến hành chẳng hạn)