tưởng không-thường-nghiệm về các tư tưởng, có phần tương đồng với trực
quan trí tuệ theo nghĩa của Kant. Khác với Kant, Hegel không băn khoăn gì
về việc đồng hóa con người với THƯỢNG ĐẾ.
2. Empfindung (cảm giác, TÌNH CẢM) gần với trực quan cảm tính.
Nhưng nó mang hơi hướng chủ quan hơn và không nhất thiết chứa đựng sự
ý thức về một đối tượng. Vì vậy trong BKT III, cảm giác thuộc về “giác
hồn”, còn trực quan thuộc về “tinh thần lý thuyết”
3. Sinn có một dãy nghĩa rộng, đại thể nhưng không hoàn toàn giống
với nghĩa của “sense” trong tiếng Anh: (a) “cảm nhận”, “cảm thức” (chẳng
hạn về âm nhạc, về lịch sử, hay về sự hài hước); (b) năm “giác quan”, “tâm
trí” (chẳng hạn một ý vừa nảy ra trong “tâm trí” tôi; mất trí, hay tỉnh trí;
chúng tôi nhất trí), (c) “nghĩa” của một chữ, một nhận định, một tác phẩm
nghệ thuật, một hành động, của cuộc đời, v.v., (Sinn theo nghĩa cuối này thì
chủ quan hơn Bedeutung “ý nghĩa”: Sinn là nghĩa của một chữ trong một
ngữ cảnh, chứ không phải (những) nghĩa trong Từ điển). Tính từ sinnlich
và danh từ trừu tượng Sinnlichkeit (do Wolff dùng để dịch chữ La-tinh
sensibilitas, sensualitas) chỉ tương ứng với một số nghĩa của Sinn: những gì
là sinnlich thì có thể tri giác được bằng các giác quan, tức “cảm tính”, “cảm
giác”. Nếu áp dụng cho người hay một phương diện của con người, nó có
nghĩa là “bị những ham muốn cảm tính hay ham muốn thể lý, nhất là ham
muốn nhục cảm, thống trị”. Hegel thường sử dụng das Sinnliche (cái cảm
tính) tương phản với “BIỂU TƯỢNG”, “tư tưởng”, v.v. Cảm năng
(Sinnlichkeit/Anh: sensibility) là: (a) năng lực thu nhận những kích thích
cảm giác từ các đối tượng, nhờ đó, theo quan niệm của Kant, các trực quan
(và qua đó các đối tượng) được mang lại cho ta; (b) KINH NGHIỆM của ta
hay bản tính của ta, trong chừng mực chứa đựng kinh nghiệm cảm giác và
tình cảm, ham muốn thể lý, v.v. tương phản với tư tưởng, LÝ TÍNH, v.v.
Vì cảm tính và những từ phái sinh của nó tương phản với “tư tưởng”,
và tư tưởng có thể hoặc thuần túy hoặc chứa đựng chất liệu cảm tính, nên