nó cũng bị phê phán:
(1) Việc giương cây gậy đe dọa đối với một con người có thể là đối xử
với anh/chị ta như đối xử với con chó dữ, nhưng, theo quan niệm của
Feuerbach, thật ra, sự đe dọa gián tiếp và tinh vi hơn nhiều vốn mặc nhiên
ở trong luật pháp có thể chỉ gây tác động đến con người, chứ không phải
chó.
(2) Việc loại trừ các cách xem xét theo thuyết công lợi ra khỏi việc
biện minh cho sự trừng phạt khó có thể dễ dàng được chấp nhận. Hegel có
xu hướng giả định rằng một hệ thống trừng phạt được xây dựng trên lý
thuyết của ông cũng sẽ răn đe được tội phạm. Nhưng, nếu giả định này là
sai, thì ông ắt sẽ ưa chuộng, chẳng hạn, một xã hội với nhiều tội ác, mà tất
cả (hay hầu hết) chúng đều bị trừng phạt, hơn là một xã hội với ít tội ác, và
phần lớn trong số đó [có thể] thoát khỏi bị trừng phạt. Sự ưa thích ưu tiên
này không đúng đắn một cách hiển nhiên.
(3) Việc diễn giải và giá trị hiệu lực của lý thuyết của ông là không
chắc chắn. Ta sẽ xử lý làm sao với kẻ, chẳng hạn, ăn trộm hay giết người
dựa vào sức mạnh của sự ưu thế có thật hay tưởng tượng của anh/chị ta đối
với những người khác, và, vì thế, không thể được xem như là kẻ muốn rằng
anh/chị ta cần được đối xử giống như anh/chị ta đối xử với những người
khác?
(4) Lòng tin của Hegel rằng kẻ phạm tội phải có quyền để được trừng
phạt và rằng lý thuyết giải thích tại sao ta buộc phải (hơn là đơn thuần có
thẩm quyền) trừng phạt anh/chị ta, là điều không được minh chứng rõ ràng.
Có lẽ ông dồn thành một (a) “việc không trừng phạt một tội phạm là vi
phạm các quyền hạn của anh/chị ta”, với (b) “gây nên đau đớn đối với tội
phạm, chẳng hạn, chỉ để răn đe những người khác, hoặc không trừng phạt
anh/chị ta với niềm tin rằng anh/chị ta không chịu trách nhiệm đối với
những hành động của mình, là vi phạm những quyền hạn của anh/chị ta”.
Điều (b) không dẫn đến điều (a).