trong một số sự xuất hiện của nó, nói lên sức mạnh phân ly (So sánh với
“de-”, và “un-”). Nhưng trong thời Hegel nó có nghĩa là “quyết tâm, quyết
định”, vì thế cách ông dùng chữ này mang âm hưởng nhân hình hay thần
học. Sự quá độ này từ Lô-gíc học sang tự nhiên là hoàn toàn khác với
những sự chuyển tiếp (chữ Übergange xuất phát từ động từ übergehen,
nghĩa là “vượt qua”) nối kết các phạm trù ở bên trong Lô-gíc học. Vì thế ý
niệm lô-gíc không trực tiếp trở thành SỰ SỐNG, giai đoạn tự nhiên vốn là
cái đối ứng rõ rệt nhất với giai đoạn cao nhất của Lô-gíc học, nhưng đã hầu
như quay trở lại chỗ khởi đầu của nó và trở thành tồn tại đơn thuần của
KHÔNG GIAN. Do đó nó vượt qua các giai đoạn của CƠ HỌC (thời gian
và KHÔNG GIAN, vật chất và vận động, cơ học tuyệt đối, tức là hệ thống
hành tinh), vật lý học (đi từ ánh sáng đến các tiến trình hóa học), và vật lý
học hữu cơ (trái đất như là một thể hữu cơ và sự sống hữu cơ). Mỗi giai
đoạn chuyển sang giai đoạn kế tiếp theo cách giống như các phạm trù
chuyển hóa sang nhau trong Lô-gíc học. Theo Hegel, tự nhiên không có
LỊCH SỬ: các hóa thạch tuy vẫn còn đó nhưng chẳng bao giờ sống động.
Tuy vậy, giống như Schelling, ông liên tục tìm kiếm các ý nghĩa tinh thần
hay khái niệm trong các hiện tượng, chẳng hạn như ánh sáng và từ tính. Có
vài lý do cho điều này:
(1) Phù hợp với toàn bộ thuyết DUY TÂM của Hegel, tự nhiên, dù
không phải là sản phẩm của bất kỳ tinh thần hữu hạn nào, phải mang theo
những dấu hiệu của tinh thần: nó có “trí tuệ”, dù “đã bị hóa thạch”.
(2) Triết học tự nhiên không chỉ nhằm mang lại thông tin về tự nhiên,
mà còn phục hồi tinh thần cho nó, tức VƯỢT BỎ tự nhiên hay SỰ THA
HÓA của nó khỏi con người (hay sự tha hóa của con người khỏi tự nhiên).
Việc khám phá tự nhiên và khái niệm hóa những khám phá ấy một cách
thích hợp chỉ là một cách để làm điều này. Cách khác nữa, thỏa đáng hơn,
là chỉ ra rằng các sản phẩm và những vận hành của tự nhiên là giống-tinh
thần hơn so với những nguyên tử cứng nhắc và các tương tác cơ học của
chúng theo cách nhìn của Newton.