giáo dục có thể so sánh với tiến trình của một cá nhân. GDNL của Lessing
[Erziehung des Menschengeschlechts - Sự giáo dục của loài người] lập
luận rằng tôn giáo giữ một phần quan trọng trong nền giáo dục này, và rằng
“sự khải thị cho toàn bộ loài người chính là giáo dục [Erziehung] đối với
con người cá nhân” (§1). Trong AE [Über die ästhetische Erziehung des
Menschen in einer Reihe von Briefen - Về sự giáo dục thẩm mỹ của loài
người trong một loạt các bức thư], Schiller dành một vai trò tương tự cho
nghệ thuật, và báo trước quan niệm của Hegel rằng văn hóa chứa đựng sự
THA HÓA và sự ĐỐI LẬP: “Chỉ có một con đường để phát triển các tiềm
năng đa dạng trong con người là phải đặt họ vào trong sự đối lập với người
khác. Sự đối kháng của các lực là công cụ to lớn của văn hóa [Kultur]”
(AE, VI).
Hegel là một nhà giáo và, với tư cách ấy, quan tâm một cách nhẹ
nhàng, không thái quá đến tiến trình và kỹ thuật giáo dục. Ông là một nhà
sử học, đã xem sự phát triển của (các) nền văn hóa là tất yếu theo hướng
tiến lên, mặc dù quanh co. Và là một triết gia, ông ý thức được về các tiền
giả định văn hóa của triết học, về bối cảnh và ý nghĩa văn hóa của chính
các tư tưởng của ông. Quan niệm của Hegel về sự giáo dục và văn hóa, dù
là của một cá nhân, một dân tộc, hay của nhân loại xét như một toàn bộ, là
khác với thời Khai minh và khác với cả chủ nghĩa nhân văn cổ điển của
Goethe. Đối với thời Khai minh, sự giáo dục là sự hoàn thiện cá nhân và xã
hội một cách êm ả và đơn tuyến bằng cách từng bước thay thế LÒNG TIN
bằng lý tính. Với Goethe, sự giáo dục là đào tạo con người hướng theo lý
tưởng của sự hòa hợp thẩm mỹ. Ngược lại, Hegel xem giáo dục (và sự
PHÁT TRIỂN nói chung) là một tiến trình tiến lên, đi từ sự nhất thể tự
nhiên, sơ khai sang giai đoạn tha hóa và xuất nhượng để sau cùng đạt đến
giai đoạn hòa giải hòa hợp (Versöhnung). Sự Khai minh đối lập lòng tin và
lý tính nên bản thân cũng là một biểu hiện của sự tha hóa, cần phải được
vượt bỏ trong sự tái hòa giải.