Kant gán Willkür (nhưng không phải Wille) cho loài vật, và chia làm
hai loại (PPLTTT, A354, B562):
(1) Willkür (arbitrium brutum) của loài vật không chỉ bị “tác động về
mặt sinh lý” bởi những sự thôi thúc bản năng và ham muốn CẢM TÍNH,
mà còn bị chúng “buộc phải làm một cách sinh lý”. Một con vật không
tránh khỏi việc hành động theo các ham muốn tức thời mãnh liệt nhất của
nó, trừ phi nó bị ngăn cản làm việc đó từ bên ngoài.
(2) Willkür tự do (arbitrum liberum) cũng mang tính cảm tính
(sinnlich), khi đó nó bị “tác động về mặt sinh lý” bởi những sự thôi thúc,
nhưng không bị “bắt buộc phải làm” và có thể lựa chọn hành động chống
lại chúng, hoặc vì hạnh phúc lâu dài (tức là sự thỏa mãn một cách tốt nhất
các ham muốn có thể có trong tương lai, cũng như các ham muốn trong
hiện tại), hoặc từ các nguyên tắc hợp lý tính, độc lập với mọi ham muốn và
sự thôi thúc của nó.
Vì cả hai loại Willkür đều được mô tả là cảm tính (sinnlich), Kant ngụ
ý là có một cái Willkür phi-cảm-tính, cái Willkür này hoặc là hoàn toàn
không bị tác động bởi những sự thôi thúc cảm tính (ý chí “thần thánh” hay
“linh thiêng”), hoặc mặc dù có bị tác động bởi chúng, nhưng thường xuyên
phớt lờ chúng vì các nguyên tắc hợp lý tính. Nhưng Kant thường coi điều
này là Wille hơn là Willkür, và để dành khái niệm “tự do của Willkür” cho
khả năng lựa chọn trong số những sự thôi thúc tức thời hoặc vượt qua
chúng vì những lợi ích lâu dài.
Wille, theo nghĩa là “ý chí thường nghiệm”, là năng lực hành động
theo các nguyên tắc hợp lý tính, dựa trên bản tính cảm tính của con người
và nhắm tới hạnh phúc toàn thể của con người. Trong nghĩa này, Wille gần
với Willkür trong nghĩa thứ (2) nói trên. Wille thuần túy, hay Wille tự do
tuyệt đối, trái lại, phục tùng các QUY LUẬT lý tính, độc lập với các ham
muốn hay hạnh phúc của con người.