(4) Hegel đọc rất rộng về lịch sử triết học, và mối quan tâm của ông
đến các triết gia quá khứ, đặc biệt là các triết gia Hy Lạp, vượt khỏi ý nghĩa
của họ cho hệ thống của riêng ông.
Trong những Dẫn nhập của mình, Hegel bàn về bản tính của triết học
và lịch sử triết học, và các nguyên tắc phương pháp luận cho nghiên cứu
của ông. Sau một mô tả ngắn về triết học Đông phương (Trung Quốc và Ấn
Độ), ông thảo luận về triết học Hy Lạp từ khởi thủy (Thales) đến kết thúc
(Proclus). (Triết học Hy Lạp chiếm hơn một nửa các bài giảng). Một mô tả
ngắn hơn về triết học trung đại và Phục hưng theo sau là triết học hiện đại
từ Bacon đến Schelling. Bản thân Hegel không nhắc đến tên mình, nhưng
một mục cuối có nhan đề là “Kết thúc” sẽ tóm lược toàn bộ lịch sử triết học
và do đó mặc nhiên thể hiện ông là tột đỉnh của toàn bộ lịch sử triết học,
nhất là tột đỉnh của thuyết duy tâm Đức của Jacobi, Kant, Fichte và
Schelling. (Chỉ Schelling là còn sống để tranh luận về quan niệm này).
Những ưu ái của Hegel không được chia sẻ rộng rãi: ví dụ ông dành
nhiều không gian cho Böhme và Jacobi hơn là Hume, và làm ngơ Herder,
một tác giả viết nhiều, nhưng không hệ thống. (Ông hoàn toàn không đề
cập tới Vico hay Nicholas Cusanus). Nhưng đa phần lối tiếp cận lịch sử
triết học của ông (cũng như lối tiếp cận đến mọi thứ khác) là KHÁCH
QUAN và không có tính cá nhân. Chẳng hạn, Hegel bỏ quan niệm truyền
thống, vốn được Plato truyền bá và vẫn đang còn duy trì nơi Tennemann
chẳng hạn, rằng các nhà biện thuyết Hy Lạp là những tay bịp bợm vô luân
không có vị trí thích đáng trong lịch sử triết học, và xem họ là những nhà tư
tưởng BIỆN CHỨNG, là những người, ngược lại với chủ nghĩa khách quan
của các nhà triết học trước đó, đã phát triển nguyên tắc về tính CHỦ
QUAN và qua đó đã dọn đường cho Socrates. Quan niệm này, và lối tiếp
cận chung của Hegel, ảnh hưởng rất lớn đến các nhà triết học sử về sau,
nhất là Zeller.
Nguyễn Văn Sướng dịch