[Gemüt] (“tâm hồn” - xem TINH THẦN] hơn là sự văn minh, nhưng đã
tiếp nhận Kitô giáo của các dân tộc bản địa. Nguyên tắc của sự tự do phổ
quát được Kitô giáo truyền bá đã dần dần được hiện thực hóa trong các
định chế xã hội. Thời kỳ này chia thành ba giai đoạn:
(a) “Các yếu tố của thế giới Giéc-manh-Kitô giáo”, cụ thể là những
cuộc xâm chiếm của những người dã man, sự ra đời của đạo Hồi và những
cuộc chinh phục người Ả-rập, và đế chế của Charlemagne.
(b) “Thời Trung đại”, đặc biệt là chế độ phong kiến, các cuộc Thập tự
chinh, sự ra đời của chế độ quân chủ chuyên chế và thời Phục hưng của
nghệ thuật và khoa học.
(c) “Thời Cận-Hiện đại”, đặc biệt là phong trào Cải cách, sự ra đời của
nhà nước hiện đại, phong trào Khai minh và Đại Cách mạng Pháp.
THLS kết luận với một sự tái khẳng định quan niệm rằng triết học biện
biệt trong lịch sử sự phát triển của “Ý NIỆM đang tự-hiện-thực-hóa chính
mình, và thực ra chính là sự phát triển của ý niệm về tự do”, vốn chỉ hiện
hữu như là Ý THỨC về tự do. Việc xem lịch sử theo cách này và xem lịch
sử là “diễn trình của tinh thần” sẽ mang lại một “biện thần luận”, tức một
“sự biện minh cho THƯỢNG ĐẾ trong lịch sử”, “hòa giải tinh thần với
lịch sử thế giới và HIỆN THỰC”, cho thấy nó là “công trình của Thượng
Đế”.
Đôi khi Hegel nói như thể quan niệm này về lịch sử không trình bày
sự kiện khách quan về lịch sử, nhưng là quan niệm rằng chúng ta phải tiếp
tục nắm vững lịch sử và phóng chiếu lên nó, nếu muốn tạo nên ý nghĩa cho
nó và mang lại một nền sử ký mạch lạc: “nếu bạn nhìn vào lịch sử một cách
hợp lý tính, thì lịch sử cũng nhìn lại bạn một cách hợp lý tính”. Niềm tin
của Hegel rằng chỉ những DÂN TỘC có lịch sử thành văn mới thể hiện
được bước tiến của tinh thần thế giới hàm ý rằng ông quan tâm đến quan
niệm của ta về lịch sử, với những sự kiện như đã được các sử gia xử lý, hơn