được quan niệm là công lợi (utilitarian) trong tinh thần của nó). Vào năm
1831, phần này gồm: (a) sự thống nhất, tức tôn giáo nguyên thủy; (b) sự
phân đôi (Entzweiung), tức tôn giáo phương Đông, gồm cả Do Thái giáo;
(c) sự hòa giải (Versöhnung), tức tôn giáo Hy Lạp và La Mã.
4. Tôn giáo hoàn bị hay “tuyệt đối”, tức là Kitô giáo. Hegel bàn về
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần, với những thay đổi giữa các loạt
bài giảng. Kitô giáo không được quan niệm đơn thuần là một tôn giáo trong
số các tôn giáo khác, mà như “việc khái niệm quay trở lại chính mình” từ
sự phát triển nằm bên trong tôn giáo nhất định, và như việc hoàn thành trọn
vẹn khái niệm về tôn giáo theo một cách mà tôn giáo khác không làm được.
Nó VƯỢT BỎ và là CHÂN LÝ của những gì là đúng thật trong các tôn
giáo khác, giống như triết học của Hegel vượt bỏ các triết học khác.
Khác với Kant, Hegel thực sự quan tâm đến những chi tiết của niềm
tin và thực hành tôn giáo. Nhưng nghiên cứu của ông được điều chỉnh với
mục đích chỉ ra rằng Kitô giáo là trùng hợp với triết học. Do đó ông lý giải
Kitô giáo (không phải không hợp lý) để nhấn mạnh vào sự hội tụ của nó
với triết học, nhưng ông không luôn luôn sống theo lời tuyên xưng đức tin
của mình với giáo phái Luther chính thống. Sự hội tụ này không phải lúc
nào cũng chặt chẽ: chẳng hạn ý nghĩa tôn giáo của Đấng Christ, Chúa Con
hay Chúa hiện-thân-làm-người, là sự hợp nhất con người với Thiên Chúa,
nhưng trong hệ thống của Hegel, Chúa Con đại diện cho TỰ NHIÊN, là cái
tồn tại KHÁC hay sự THA HÓA của Ý NIỆM lô-gíc.
Ông cũng muốn chỉ ra rằng trong sự xuất hiện lịch sử của mình, các
tôn giáo đều đang tiến lên, dù quanh co, đến Kitô giáo. Vậy nên ông ít chú
ý đến đạo Islam, một triết học mà ông cho là thấp kém hơn Kitô giáo, dù
đạo Islam xuất hiện sau Kitô giáo. Những khác biệt giữa loạt các bài giảng
phần nào là từ sự kiện rằng các tôn giáo không tạo ra chuỗi biên niên sử rõ
ràng như các nền triết học chẳng hạn.