(1) Một bối cảnh hoàn toàn có tính bản thể, trong đó các cá nhân được
hợp nhất bởi những mối dây ràng buộc thiếu tính phản tư của XÚC CẢM
và tình cảm, ví dụ như GIA ĐÌNH và, ở cấp độ NHÀ NƯỚC, đó là giai cấp
nông dân.
(2) Sự xuất hiện của các chủ thể phản tư, tự tư tự lợi trong XÃ HỘI
DÂN SỰ, và cũng trong cả những chủ thể LUÂN LÝ có tính phản tư.
(3) Sự tái thống nhất của các chủ thể độc lập trong Nhà nước, (không
giống như trong xã hội dân sự) bản thân là một chủ thể đơn nhất, được đại
diện bởi một quốc vương, và (không giống như gia đình) đòi hỏi sự tán
thành hợp lý tính có tính phản tư của các thành viên.
Theo quan điểm của Hegel, chỉ trong một nhà nước có độ thống nhất
cao, vượt xa so với thành quốc Hy Lạp, mới có thể xuất hiện các chủ thể
độc lập tự tồn; nếu không có một nhà nước như thế, xã hội sẽ tan rã thành
một tập hợp của những cá nhân.
Vì thế, theo quan điểm của Hegel, bản thể đạo đức, trong hình thức
của nhà nước hiện đại, phản ánh vũ trụ như một toàn bộ. Học thuyết của
Spinoza phản ánh thành quốc Hy Lạp, và theo Hegel, bộc lộ tính bất ổn
định tương tự.
Cù Ngọc Phương dịch
Bên trong và Bên ngoài (cái, tính) [Đức: das Innere und das
Äussere, innerlich und äusserlich; Anh: inner and outer, internal and
external]
Giới từ aus (từ, ngoài, v.v.), ausser (bên ngoài, v.v.), in (trong), và
trạng từ inne(n) (bên trong) tạo ra một số từ trong phạm vi này: