và ngắn nhất thì anh ta sẽ nhìn thấy được ở các thực thể trong tranh
những khác biệt mỏng manh nhất và tỉ mỉ nhất. Đó là hội họa đẹp, đó
là sự mô phỏng tự nhiên một cách thật sự. Mối tương quan của tôi vói
bức tranh ấy chính là mối tương quan của tôi với tự nhiên mà họa sĩ đã
lấy làm kiểu mẫu. Tôi nhìn tự nhiên rõ thêm khi mắt tôi tiến lại gần;
tôi nhìn nó kém đi khi mắt tôi lùi xa đần.
Nhưng có một loại hội họa khác chẳng kém phần theo tự nhiên,
nhưng nó chỉ mô phỏng hoàn toàn tự nhiên ở một khoảng cách nào
đấy; có thể nói nó chỉ là mô phỏng trong một điểm; đó là hội họa mà
họa sĩ chỉ thể hiện sắc nét và mạnh mẽ những chi tiết nào của các thực
thể mà anh ta nhận thấy được từ một điểm lựa chọn trước; ở phía
ngoài điểm ấy, người ta không nhìn thấy gì nữa; ở phía trong, lại còn
tệ hơn. Bức họa của anh không phải là một quang cảnh
; từ tranh cho
đến chỗ anh đặt mắt nhìn, người ta không biết đó là cái gì. Tuy nhiên,
không nên chê trách loại hội họa này. Đó là loại hội họa của
Rembrandt danh tiếng; chỉ riêng tên tuổi ấy cũng đủ là lời khen ngợi
rồi.
Từ đó người ta thấy rằng quy tắc vẽ thật tỉ mỉ cũng có giới hạn
nào đấy. Nó được tuyệt đối tuân thủ trong loại hội họa thứ nhất mà tôi
đã nói đến ở mục trước; nó không thiết yếu đến như vậy trong loại thứ
hai; ở đây họa sĩ bỏ qua tất cả những gì trong các thực thể chỉ có thể
nhận thấy được từ những điểm gần tranh hơn các điểm mà anh đã lấy
làm điểm nhìn của mình.
Ví dụ về một ý tưởng tuyệt vời của Rembrandt: Rembrandt đã vẽ
bức Sự hồi sinh của Lazare (Resurrection de Lazare); vị Cơ-đốc của
ông có vẻ như một tristo
: người quỳ trên miệng huyệt; người cầu
nguyện, và ta thấy hai cánh tay từ đáy huyệt giơ lên.
Ví dụ về một loại khác: có lẽ chẳng có gì nực cười bằng tranh vẽ
một kẻ mặc áo mới lúc ở hiệu thợ may đi ra, dù đó là người thợ may