bao giờ có nhà lý luận nào dồn nhiều công sức và tâm huyết vào đó
như tác giả Những tùy bút về hội họa và Các phòng triển lãm. Điều
này là hệ quả tất yếu quan điểm duy vật. Vai trò của tồn tại khách quan
chiếm vị tri hàng đầu trong suy nghĩ của ông. Tự nhiên là ngọn nguồn
và đối tượng của nhận thức. Chuyển dịch sang lĩnh vực nghệ thuật,
tiếp tục trăn trở với suy nghĩ chủ đạo của mình, ông không thể không
ra sức chứng minh tự nhiên là ngọn nguồn và đối tượng của sáng tác.
Một bên thông qua cảm giác, một bên qua khâu mô phỏng.
Tác giả không dừng lại ở chỗ lý luận chung chung. Từ góc độ
triết gia chuyển sang góc độ một nhà nghiên cứu và phê bình nghệ
thuật, ông đã phân tích tỉ mỉ những lý do cụ thể vì sao nghệ sĩ phải
bám sát và mô phỏng tự nhiên, hiểu theo nghĩa thế giới khách quan,
bao gồm thiên nhiên và con người. Không có con mắt và vốn hiểu biết
của một nghệ sĩ thì không thể viết được như vậy. Có lẽ đấy là một
trong những nét đặc sắc bộc lộ tài năng độc đáo không đi theo lối mòn
mà Naigeon muốn nói.
Mở đầu Những tùy bút về hội họa, Diderot dành cả đoạn dài để
trình bày những nhận xét của ông về tự nhiên. Người phụ nữ kia bị mù
từ khi còn nhỏ tuổi; hai mắt chị bây giờ chỉ còn là hai hố trũng sâu; mi
mắt và lông mày phía trên như bị kéo vào trong hai hốc mắt, co rúm
lại; mi mắt phía dưới cũng vậy, khiến cho hai gò má căng ra, hơi rướn
lên, ảnh hưởng lan cả đến môi trên; tất cả các bộ phận trên khuôn mặt
đều bị biến dạng đi nhiều hay ít, tùy theo vị trí của chúng ở cách hai
mắt gần hay xa. Tác giả viết; “Mà ông tưởng rằng sự dị dạng thu hẹp
trong khuôn khổ hình trái xoan ư? ông tưởng rằng cái cổ được hoàn
toàn bảo đảm ư? cả hai vai, cả bộ ngực nữa? Vâng đúng thế, đối với
mắt ông và đối với mắt tôi. Nhưng ông hãy mời tự nhiên đến, ông hãy
đưa cho tự nhiên xem cái cổ ấy, đôi vai ấy, bộ ngực ấy, và tự nhiên sẽ
bảo: Đấy là cái cổ, đấy là đôi vai, đấy là bộ ngực của một người phụ
nữ đã mất đôi mắt từ hồi còn niên thiếu”.