Trong sân Rome, tôi lục túi kiểm tra xem còn đủ tiền không. Mười franc.
Tôi có thể đi taxi. Sẽ nhanh hơn nhiều so với tàu điện ngầm: nếu đi tàu điện
ngầm thì tới bến Opéra tôi sẽ phải đổi tàu, phải xách va li đi dọc các hành
lang.
Người tài xế chực cho cái va li vào cốp xe nhưng tôi muốn giữ nó lại bên
mình. Chúng tôi đi xuôi đại lộ Opéra và đi theo các bờ ke. Đêm hôm ấy
Paris hoang vu như một thành phố mà tôi sắp rời bỏ mãi mãi. Đến ke
Toumelle, tôi chỉ sợ đã đánh mất chìa khóa phòng, nhưng nó vẫn nằm yên
trong túi áo gió của tôi.Tôi đi ngang qua trước quầy tiếp tân nhỏ và hỏi
người đàn ông theo lệ thường còn ở đó đến nửa đêm xem có ai gọi điện cho
phòng số ba không. Ông ta đáp là không có, nhưng mới mười giờ kém mười
phút.
Tôi leo lên cầu thang, không bị ông ta hỏi han gì. Có lẽ ông ta không phân
biệt được Van Bever với tôi. Hoặc giả ông ta chẳng còn muốn đoái hoài tới
đám người đến và đi ở một khách sạn sắp phải đóng cửa.
Tôi mở hé cửa phòng để nghe cho rõ nếu ông ta gọi tôi ra nghe điện thoại.
Tôi đặt nằm cái va li xuống đất, rồi lên giường của Jacqueline nằm. Mùi ê te
dai dẳng trên gối. Có phải nàng lại dùng nó không? Sau này chẳng biết trong
tâm trí tôi cái mùi ấy liệu có vĩnh viễn gắn chặt với Jacqueline ?
Từ mười giờ trở đi, tôi bắt đầu cảm thấy lo âu: nàng sẽ không gọi và tôi sẽ
không còn gặp lại nàng nữa. Tôi thường nghĩ đến chuyện những người tôi
quen biết sẽ biến mất bất cứ lúc nào, chẳng bao giờ còn có tin tức. Cả tôi
nữa, tôi cũng từng hẹn rồi chẳng thèm đến hoặc thậm chí còn lợi dụng lúc ai
đó đang đi bên cạnh trên phố không chú ý để bỏ đi. Một cái cổng trên quảng
trường Saint‒Michel vẫn thường giúp ích rất nhiều cho tôi. Chỉ cần bước
qua đó là ta có thể vượt một cái sân nhỏ sang bên phố Hirondelle. Và tôi đã
viết vào một cuốn sổ nhỏ màu đen danh sách tất cả những tòa nhà có hai lối
vào...
Tôi nghe thấy giọng người đàn ông vọng lên trong cầu thang: điện thoại
gọi cho phòng số ba. Đã mười giờ mười lăm phút, và tôi đã chẳng còn tin sẽ