quan phủ , quan huyện, vang lên tiếng bập bẹ đồng thanh , ồn ào , vui vẻ
của các Quan và cả gia đình những chữ "dị kỳ" : Ba , bã , bâ , be, bê... ác ,
át , an, ang, áp , am...
Quan ông , quan bà , các cô ,các cậu , vừa tập đọc vừa cười rần-rộ. Các chú
lính lệ đứng quạt hầu cho Quan Lớn và Bà Lớn , hoặc vòng tay đứng chờ
lịnh Quan sai những công việc lặt-vặt , đều cười khúc-khích với nhau , ngơ
ngơ ngác ngác chẳng hiểu chi cả.
Trong thời gian ấy , học trò lớp Năm các trường nhà nước đã thuộc vần chữ
Quốc ngữ trong một tháng khai giảng đầu tiên , rồi tiếp đến học cửu
chương bằng chữ Hán , để làm toán cộng , toán trừ , và học... "vocabulaire"
tiếng Pháp !
Lên lớp Tư (lớp Dự Bị) đã học chữ Pháp nhiều hơn , ở lớp Ba (Sơ Đẳng) ,
học chữ Pháp nhiều hơn nữa , lên đến lớp Nhì và lớp Nhứt thì các môn học
hoàn toàn bằng Pháp ngữ.
Song-song với phong trào học chữ quốc ngữ và chữ tây được thịnh hành và
truyền bá rất nhanh chóng trong các từng lớp dân chúng , đời sống vật chất
của xã hội Việt Nam , từ năm 1919 cũng đã thay đổi rất nhiều và rất mau lẹ.