chính, tư tưởng này vẫn được truyền lại cho tới ngày nay, vì nó làm người ta yên
tâm: nó cho phép gạt bỏ cái hình ảnh bất nhã và đáng lo ngại về ông già tà dâm.
Sau khi xác định giá trị của tuổi già, Platon kết luận: “Người cao tuổi nhất
phải chỉ huy, thanh niên phải vâng lời”. Nhưng ông đưa thêm tiêu chí giá trị vào
tiêu chí tuổi tác. Trong cuốn Nền cộng hòa của ông, những hiệp sĩ kiểm soát tất
cả các thẩm phán, đều tuổi từ 50 đến 75. Những nhà làm luật, với vai trò vốn rất
quan trọng, tuổi từ 50 đến 70. Những người tuổi trên 60 không còn tham gia đàn
hát và chè chén trong tiệc tùng. Nhưng họ chủ trì những bữa tiệc ấy, ngăn chặn
những hiện tượng phóng đãng, và bàn bạc về những vấn đề đạo lý, nguồn cảm
hứng của những bài hát.
80 tuổi, Platon trở lại nói nhiều về tuổi già trong cuốn Pháp luật (Les Lois);
nhiều lần, ông nhấn mạnh nghĩa vụ con cái đối với bố mẹ già. Họ phải nói năng
lễ phép đối với bố mẹ và đưa của cải và thân mình phục vụ bố mẹ. Người ta thờ
phụng tổ tiên đã mất; vị tổ tiên tương lai đã mang tính chất thiêng liêng: “Chúng
ta không thể có một đối tượng thờ phụng nào xứng đáng được tôn kính hơn một
người cha hay một người ông, một bà mẹ hay một người bà sống vất vả trong
tuổi già”.
Triết lý của Aristote dẫn ông tới những kết luận khác xa. Theo ông, linh hồn
không phải là trí năng đơn thuần; thậm chí, loài vật cũng có linh hồn và linh hồn
có quan hệ tất yếu với cơ thể; con người chỉ tồn tại khi có sự kết hợp giữa linh
hồn và cơ thể: sự kết hợp ấy là hình thái của cơ thể, những nỗi đau ảnh hưởng
đến cơ thể đụng tới toàn bộ cá nhân. Cơ thể phải nguyên vẹn thì tuổi già mới có
hạnh phúc: “Một tuổi già hạnh phúc là tuổi già trải qua nhiều năm tháng, nhưng
không tàn phế. Nó phụ thuộc vào toàn bộ những ưu thế về cơ thể người ta có thể
có được, nhưng cũng phụ thuộc vào ngẫu nhiên” - Aristote viết như vậy trong
Phép tu từ (La Rhétorique). Trong Những nhà đạo đức học (Les Ethiques), ông
cho rằng nhà hiền triết có thể chịu đựng một cách cao thượng mọi bước thăng
trầm. Nhưng những lợi ích của cơ thể và những lợi ích bên ngoài là cần thiết cho
lợi ích của tinh thần. Ông cho rằng con người tiến triển cho tới tuổi 50. Phải đến
một độ tuổi nhất định mới có thể có sự khôn ngoan thận trọng cho phép người ta
xử sự đúng đắn và thu thập được kinh nghiệm, một tri thức không thể truyền thụ
vì là một tri thức sống động, chứ không phải trừu tượng. Nhưng sau đó, sự suy
tàn của cơ thể kéo theo sự suy tàn của toàn thể con người. Trong Phép tu từ,
Aristote miêu tả tuổi thanh xuân dưới những sắc màu tươi tắn nhất: nồng nhiệt,
say mê, cao thượng, và trên tất cả mọi điểm, ông cho là tuổi già đối lập với tuổi