“Vậy à, anh là một người yêu âm nhạc à. Tôi nhận thấy việc say mê
âm nhạc nó gớm ghiếc lắm.”
Tôi không để cho gã dọa nạt tôi.
“Tôi thường nghe ông đàn luôn, mãi tận nhà thờ,” tôi nói. “Nhưng tôi
không muốn quấy rầy ông. Tôi nghĩ rằng tôi có thể nhận thấy một cái gì,
một cái gì đặc biệt: thực ra thì tôi không biết nó là gì. Nhưng đừng để ý đến
tôi. Tôi có thể nghe ông đàn ở nhà thờ.”
“Nhưng tôi luôn luôn khóa cửa lại mà.”
“Trước đây không lâu la gì ông quên khóa cửa và tôi có vô ngồi ở bên
trong. Còn thường thì tôi đứng ở bên ngoài hoặc ngồi trên lề đường.”
“Thực à? Lần sau anh có thể vô bên trong, ấm áp hơn. Tất cả điều anh
phải làm là gõ cửa. Nhưng anh phải gõ mạnh và đừng gõ trong khi tôi đang
đánh đàn. Bây giờ bắt đầu đi, anh muốn nói với tôi những gì nào? Anh
hoàn toàn còn trẻ vậy mà, chắc chắn là một sinh viên gì dó. Anh có phải là
nhạc sĩ không?”
“Không phải. Tôi thích nghe âm nhạc, nhưng chỉ thích nghe thứ âm
nhạc ông chơi thôi, thứ âm nhạc hoàn toàn chân thật, thứ âm nhạc ấy làm
ông cảm thấy rằng con người là kẻ lắc lư giữa thiên đàng và địa ngục. Tôi
tin rằng tôi yêu thứ âm nhạc ấy chỉ vì nó là phi luân. Mọi thứ khác thì luân
lý quá, nên tôi tìm kiếm một cái gì không phải thế. Huấn tắc, đức luân, đối
với tôi luôn luôn hình như không sao chịu nổi. Tôi không thể giải bày nó
thật rõ ràng – Ông có biết rằng có một vị thần mà ngài là cả hai thần linh và
ngạ quỷ ở một người và đồng lúc chăng? Thiết tưởng đã có lần có một vị.
Tôi có nghe về việc ấy.”
Gã nhạc sĩ hơi kéo chiếc nón rộng vành của gã ra sau và vuốt mớ tóc
xõa xuống trước mặt gã; tất cả trong khi ấy vẫn chăm chú nhìn tôi. Gã cúi
thấp mặt xuống trên chiếc bàn.
“Rất tiếc tôi không biết gì khác về ngài, hiện tôi chỉ biết tên ngài thôi.
Ngài được gọi là Abraxas.”