tấm bảng đồng thau nhỏ trên cửa trước lấp lánh dưới ánh sáng từ ngọn đèn
đường. Trên đó tôi dọc mấy chữ: “Pistorius, mục sư primarius.”
Đi không ngừng nghỉ cho đến khi tôi về tới nhà và ngồi trong căn
phòng nhỏ của tôi, sau khi dùng cơm tôi mới chợt nghĩ tới là tôi không hề
nghe bất cứ điều gì về Abraxas cũng như Pistorius – chúng tôi đã trao đổi
hầu như chỉ hơn một chục tiếng. Nhưng tôi rất hài lòng với cuộc thăm
viếng của tôi. Và bởi vì cuộc gặp gỡ tiếp của chúng tôi gã đã hứa chơi một
bản nhạc hay của âm nhạc cổ điển, một tấu khúc khiêu vũ ở Ý và Tây Ban
Nha soạn cho đàn đại phong cầm của Buxtehude.
Tôi hoàn toàn không hề hiểu biết gì về nhạc khúc ấy cà, nhà đại phong
cầm thủ Pistorius đã cho tôi bài học đầu tiên của tôi khi chúng tôi nằm sấp
trên sàn nhà trước ngọn lửa trong căn phòng của kẻ tu kín buồn nản của gã.
Đăm đăm nhìn ngọn lửa đã có một cường lực cho tôi, những xu hướng
đã được chứng thật mà tôi luôn luôn có những lúc không bao giờ khai thác.
Dần hồi một số những xu hướng ấy trở nên có thể lý hội được đối với tôi.
Ngay khi còn là một đứa trẻ nhỏ tôi đã cố cái thói quen nhìn chầm
chập vào những hiện tượng thiên nhiên kỷ quái, không phải có ý gì để quan
sát những hiện tượng ấy cả, ngoại trừ là sự hàng phục ở sức lôi cuốn của
những hiện tượng ấy, ở cái ngôn ngữ sâu xa mơ hồ của chúng. Những rễ
cây có chiếc bướu dài, những màu vân trên các viên đá, những vết dầu nổi
trên mặt nước, những vết khúc xạ quang trong kiếng – hết thảy những vật
này có lần đã có sức lôi cuốn lớn lao đối với tôi: nước và đặc biệt là lửa,
khói, mây và bụi, nhưng đặc biệt nhất là những đốm nhỏ quay cuồng của
màu sắc bơi lội trước mặt tôi, giây phút tôi khép cặp mắt lại. Tôi bắt đầu
nhớ lại tất cả những hình ảnh này trong những ngày sau cuộc viếng thăm
Pistorius của tôi, bởi vì tôi chú ý rằng một sự khỏe mạnh chắc chắn và niềm
vui, một sự làm cường tráng thêm cái tự giác của tôi mà tôi đã cảm thấy kể
từ chiều hôm ấy, tôi chịu ơn một cách độc đoán ở việc kéo dài cái nhìn đăm
đăm vào ngọn lửa này.