liễu. Tôi khó lòng mà không chú ý đến bà ta và đi qua mặt bà như bà không
hề hiện diện. Tôi thà cam chịu chết ngay còn hơn là chú ý đến người đàn bà
nào khác, dù chỉ một giờ thôi.
Tôi cảm thấy cái định mệnh của tôi tiếp tục lôi kéo tôi, tôi cảm thấy
cái giây phút thỏa lòng mong ước của tôi đang đến gần và tôi bực bội nao
nức ở chỗ không thể làm bất cứ điều gì. Một lần tại một nhà ga xe lửa, tôi
nghĩ có lẽ ở tại Innsbruck, tôi thoáng thấy một người đàn bà mà thị gợi tôi
nhớ đến bà – trên một chuyến xe lửa đang chuyển bánh. Tôi đã khốn khổ
trong nhiều ngày. Và bỗng nhiên về đêm hình ảnh lại xuất hiện trong giấc
mơ. Tôi thức giấc cảm thấy xấu hổ và ngã lòng bởi cuộc săn đuổi vô ích
của tôi và lấy vé chuyến tàu kế đó về quê.
Một vài tuần sau tôi ghi tên vào đại học H. Tôi nhận thấy mọi sự đã
biến mất. Những bài giảng về lịch sử triết học đúng là sự nhạt nhẽo và khô
cỗi như các hoạt động của hầu hết các sinh viên. Mọi sự dường như chạy
theo một nền nếp cũ kỹ, mọi người thì đang làm cùng một công việc; và sự
vui vẻ quá đáng trên những khuôn mặt trẻ con trông trống trải và máy móc
một cách chán nản. Nhưng ít ra tôi được tự do, tôi có suốt cả ngày với
mình, sống lặng lẽ và êm ả trong một căn nhà cũ, kỹ gần bức tường thành
phố, và trên bàn tôi có một vài tác phẩm của Nietzsche. Tôi sống với ông
ta, ý thức đến nỗi cộ đơn của linh hồn ông, nhận ra cái định mệnh đã xô đẩy
ông trong đó một cách tàn nhẫn; tôi đã khốn khổ với ông ta, và đã lấy làm
khoan khoái là đã từng có một người đã theo đuổi định mệnh của mình một
cách cay nghiệt đến như thế.
Xế chiều tôi lang thang qua thành phố, một cơn gió thu đang trổi
giọng và tôi có thể nghe sự nô đùa của các bạn học trong các quán cơm.
Những làn khói thuốc bay ra ngoài cửa sổ tựa như những đám mây với cái
âm điệu huyên náo ồn ào của bài hát, tuy vậy chẳng có hứng thú gì, vì âm
điệu ấy đều cùng một giọng nhạt nhẽo.
Tôi đứng ở góc phố và lắng nghe: hai giọng ca tập thử linh hoạt có
phương pháp của bọn trẻ vang lên dội lại đêm tối. Sự tương giao giả dối có