thụ trong khi lượng năng lượng tiêu thụ không đổi. Do đó, nó sẽ không phát ra
nhiều bức xạ hồng ngoại.
Hãy hình dung khi ta tham quan bảo tàng khoa học. Ta choáng ngợp với kích
thước của những cỗ máy thời kỳ cách mạng công nghiệp, như đầu máy khổng lồ
hay tàu hơi nước cực lớn. Nhưng ta cũng nhận thấy chúng hoạt động kém hiệu
quả, phát ra lượng nhiệt hao phí rất lớn. Tương tự, hàng dãy máy tính to lớn của
thập niên 1950 cũng không thể sánh bằng một chiếc điện thoại di động thông
thường ngày nay. Công nghệ hiện đại ngày càng tinh vi, thông minh và bớt hao
phí năng lượng hơn xưa rất nhiều.
Như vậy, văn minh Cấp II có thể tiêu thụ lượng năng lượng rất lớn nhưng không
bị quá nhiệt do biết phân tán máy móc trong các quả cầu Dyson, trên tiểu hành
tinh và các hành tinh lân cận, hoặc nhờ chế tạo thành công những hệ thống máy
tính siêu nhỏ, siêu hiệu quả. Thay vì lãng phí rất nhiều năng lượng dưới dạng
nhiệt, công nghệ của họ sẽ đạt siêu hiệu quả, tiêu thụ lượng thông tin khổng lồ
nhưng sản sinh ra tương đối ít lượng nhiệt hao phí.
NHÂN LOẠI SẼ PHÂN NHÁNH?
Tuy nhiên, mỗi nền văn minh sẽ vẫn có những giới hạn về khả năng du hành vũ
trụ. Chẳng hạn, văn minh Cấp I, như đã đề cập, sẽ bị giới hạn trong khả năng
cung cấp năng lượng của hành tinh. Trong tình huống khá nhất, họ sẽ làm chủ
được công cuộc cải tạo các hành tinh tương tự Sao Hỏa và bắt đầu thám hiểm
những ngôi sao gần nhất. Các tàu thăm dò không người lái sẽ thám hiểm những
hệ hành tinh ở gần trước và có thể các phi hành gia đầu tiên sẽ được đưa đến ngôi
sao gần nhất như Proxima Centauri. Nhưng công nghệ và kinh tế của họ không
đủ tiến bộ để kiểm soát có hệ thống các hệ hành tinh ở gần.
Văn minh Cấp II tiến bộ hơn Cấp I từ hàng thế kỷ đến hàng thiên niên kỷ, nên họ
đủ khả năng chiếm hữu một phần rộng lớn trong Dải Ngân Hà. Nhưng ngay cả
văn minh Cấp II cũng gặp giới hạn là rào cản ánh sáng. Nếu chưa thể tạo ra lực
đẩy nhanh-hơn-ánh-sáng, họ sẽ mất nhiều thế kỷ để cải tạo khu vực chiếm hữu
trong thiên hà.