ngựa của người miền núi Tây Bắc, chân thấp, tướng mạo xấu xí,
trông giống một con la già, chạy không nhanh nhưng dai sức, khi leo
núi thì không khác gì sơn dương. Loại ngựa này đặc biệt nhạy cảm với
địa hình miền núi, nó ăn rất ít và chịu được khát.
Khi qua đèo, con ngựa sông Đông của Ngân chạy song song với
con ngựa của Bạc Kỳ Sinh. Đường rất hẹp, hai con ngựa chèn nhau
khi vượt khúc quanh ở hẻm núi. Gió thổi mạnh, con ngựa sông Đông
khỏe hơn nên hất con ngựa của Bạc Kỳ Sinh xuống khe núi. Bạc Kỳ
Sinh thoát chết nhờ vào sự nhạy cảm thần kỳ của con tuấn mã.
Con ngựa chụm bốn vó, lăn tròn ở vạt dốc nghiêng, không hiểu làm
sao móc được một chân vào thân cây dâu da. Sau này Bạc Kỳ Sinh kể
lại: “Lúc đó mạng sống thật là “ngàn cân treo sợi tóc”. Con ngựa
hình như cũng biết điều đó, nó chỉ doãi cẳng chân ra là cả hai sẽ lao
xuống vực sâu 300 mét. Gió thổi, đá cào làm nó tuột xước hết cả da.
Nó run bắn lên, mồ hôi túa ra đầm đìa. Mắt nó như muốn dò
hỏi: “Tại sao? Tại sao lại chết vô lý thế này?” Thế là nó vùng vẫy,
sức lực của nó như được nhân lên gấp bội...”
Loay hoay mãi, Bạc Kỳ Sinh mới gỡ được mình ra và dìu được con
ngựa từ trên cây xuống. Bạc Kỳ Sinh bị thương khá nặng: xương đùi
gãy, một chân bị trẹo khớp. Nhưng một kỵ sĩ miền núi thì chẳng bao
giờ bỏ cuộc. Y vẫn tiếp tục cuộc đua. Để đến đích, nếu theo con
đường cũ dễ dàng thì thất bại là chắc chắn: với hơn 20 cây số
đường rừng như vậy thì người và ngựa sẽ kiệt sức vì mất máu. Bạc Kỳ
Sinh quyết định vượt qua núi đá tai mèo để về thung lũng: đường
ngắn hơn, chỉ có hơn hai cây số nhưng làm như thế nghĩa là “leo
núi” chứ không phải còn là “đua ngựa” nữa. Được cái cuộc đua không
hề quy định lộ trình bắt buộc. Từ xa xưa, dân miền núi đã quen
chỉ xác định hướng đi chứ không xác định sẽ đi như thế nào, con
người phải tự mò mẫm một mình và chỉ có linh cảm, trực giác mới
giúp họ vượt qua tất cả.