sau đó trên nền trời sang sáng dần hiện ra những chùm ánh sáng màu đen,
rắc phủ đầy lên những ngôi sao đang lấp lánh một màu khoáng chất. Anh
chợt dừng lại, ngoảnh nhìn về phía ngôi nhà:
- Em hãy nhìn xem, thật vô cùng đặc biệt, cái ánh sáng của mùa thu
chiếu vào khung cửa nhỏ ngôi nhà. Anh sẽ sống, sẽ sống mãi để nhớ buổi
tối hôm nay...
Tôi nhìn lại, và anh ôm lấy tôi trong chiếc áo choàng kiểu Thụy Sĩ mà tôi
đang khoác trên người. Tôi kéo chiếc khăn lông cho khỏi chạm vào mặt,
hơi nghiêng đầu để anh hôn tôi. Sau khi hôn, anh nhìn thẳng vào tôi, khẽ
thầm thì:
- Em có lạnh không? Tiết trời như mùa đông rồi đấy. Nếu như anh chết,
dù sao em sẽ không quên anh ngay chứ?
Tôi chợt nghĩ: nếu như anh chết thật thì sao? Và lẽ nào trong một thời
gian ngắn tôi lại có thể quên anh - dù sao thì tất cả cuối cùng rồi cũng lãng
quên? Và tôi vội trả lời, sợ hãi với chính ý nghĩ của mình:
- Anh đừng nói nữa. Em không chịu đựng nổi cái chết của anh đâu!
Anh chợt lặng im rồi từ tốn nói:
- Thôi được, nếu anh chết, anh sẽ đợi em ở đó. Em hãy sống và sống thật
vui trên thế gian này, rồi sau đó hãy đến với anh.
Mắt tôi ứa những giọt lệ đắng cay…
Và sáng hôm sau anh ra đi. Mẹ tôi đeo vào cổ anh một chiếc túi nhỏ mà
mẹ mới khâu chiều qua - trong đó đựng bức tượng thánh bằng vàng mà ông
và cha của mẹ đã từng mang trong chiến tranh. Và chúng tôi làm dấu thánh
cho anh trong nỗi tuyệt vọng vô cùng. Nhìn theo bóng anh đi, trên bậc
thềm, chúng tôi đứng ngây ra, cái thẫn thờ thường có khi tiễn ai đó trong
cuộc chia ly lâu dài. Chúng tôi cảm thấy sự không đồng cảm đến kinh ngạc
giữa mình với những hạt sương muối xinh tươi đang sáng lấp lánh trên cỏ
lúc ban mai. Đứng một lúc, chúng tôi trở vào căn nhà trống trải. Tôi đi lại
trong phòng, đặt tay sau lưng, không biết mình nên làm gì, hoặc khóc oà
lên hoặc thét to với hết giọng của mình...
Anh đã chết - ôi thật lạ làm sao những lời này - chỉ sau đó một tháng ở
Galixia. Và từ đó đúng ba chục năm đã trôi qua. Và nhiều, rất nhiều những