Việc này lẽ ra không được thực hiện. Nhưng anh đã tách chúng ra, vì
động lòng thương xót cho con chim mái cô đơn. Anh để nó vào với con
trống mới. Con chim trong hót vọng ra ngoài gọi cô bạn gái bị chia tách và
không đoái hoài gì đến cô bạn gái kia; nhưng sau đó một lúc chúng cũng
ngủ thiếp đi bên nhau. Tối hôm sau khi anh để con thứ ba vào, đã không có
sự rối loạn như ngày hôm trước. Ba con chim nằm ngủ như một quả bóng,
hai cái đầu của đôi chim mới rúc vào lông của con thứ ba. Anh đi ngủ với
cái lồng để bên cạnh gối.
Nhưng khi anh thức dậy vào sáng hôm sau, đôi chim kia vẫn ngủ như
một quả bóng tơ ấm áp. Còn con chim thứ ba nằm chết dưới cây sào ngang,
cánh nó sã ra, đôi chân cứng đờ, còn mắt thì nửa nhắm nửa mở. Vì không
muốn đôi chim kia nhìn thấy xác chết ấy, anh lấy nó ra khỏi lồng, không
nói gì với cô hầu, anh ném nó vao thùng rác. “Một kiểu giết người khủng
khiếp”, anh nghĩ.
Con nào đã chết, anh băn khoăn nhìn vào lồng. Ngược lại với điều anh
dự đoán, con còn sống hình như lại là con chim mái cũ. Anh thương con
chim cũ hơn. Có lẽ sự thiên vị làm anh nghĩ con chim cũ còn sống. Anh
sống không gia đình và sự thiên vị làm anh bối rối.
“Nếu ông có những sự phân biệt như vậy, tại sao ông lại còn sống với
chim và thú? Có cách đối xử khách quan rất phù hợp cho chúng khi chúng
được xem như một con người”.
Những con chim tước mào vàng khi bị nhốt trở nên xuống sức và chết rất
nhanh, nhưng cặp chim của anh vẫn rất khỏe.
Anh mua con chim bách thanh non từ một tay săn trộm, và câu chuyện
bắt đầu: mùa săn đến, lúc anh không thể đi ra ngoài để cho lũ chim con mới
phía dưới núi ăn. Những cánh hoa đậu tía rụng trên mặt nước khi anh mang
cái bồn ra ngoài hè để cho lũ chim tắm táp.
Khi đang lắng nghe tiếng đập cánh vào nước và đang rửa mấy chiếc lồng
thì anh nghe thấy tiếng trẻ con vọng lại phía bên kia hàng rào. Hình như