Không sẵn sàng nghe cô nói bằng cái giọng quá khích , anh rơi vào yên
lặng.
Cô không có đứa con thứ hai. Và ngay sau khi cô sinh đứa con thứ nhất,
anh không gặp cô nữa. Có lẽ vì nguyên nhân đó mà cuộc hôn nhân của cô
bắt đầu rạn nứt. Anh có nghe đồn về chuyện đó.
Chắc Chikako không bất cẩn như loài chó săn Boston.
Anh có thể cứu sống lũ chó con, nếu anh muốn. Anh hoàn toàn biết rõ
rằng anh có thể ngăn không cho những cái chết xảy ra sau đó nếu sau cái
chết của con đầu tiên anh cắt rơm ngắn hơn, hay là phủ một tấm vải lên đó.
Nhưng con chó cuối cùng cũng chết như cách của ba con trước. Anh không
thật lòng muốn lũ chó con chết, anh cũng không thật lòng muốn giữ chúng
sống. Và anh cũng chẳng quan tâm tới một thực tế rằng chúng là lũ chó lai.
Đôi khi một con chó lân la đến gần anh trên phố. Anh sẽ nói chuyện với
nó trên suốt cả chặng đường về nhà, anh sẽ cho nó ăn và cho nó ngủ. Việc
ấy làm anh hài lòng vì một con chó cảm thấm áp khi ở với anh. Nhưng sau
khi anh bắt đầu nuôi lũ chó của riêng mình thì anh chẳng còn quan tâm tí
nào tới loài chó lai.
Cũng nên làm thế với con người, anh tự nhủ, coi thường mọi gia đình
trên thế giới này trong khi đang cười nhạo sự cô đơn của chính anh.
Đó cũng là chuyện với con chim chiền chiện. Cảm giác thương xót đã
khiến anh nghĩ tới việc mang nó vào, nhanh chóng biến mất. Tự nhủ rằng
chẳng có ý nghĩa gì khi cứu một mẩu rác rưởi, anh đã để cho bọn trẻ tra tấn
con chim đến chết.
Nhưng trong lúc anh mải nhìn con chim chiền chiện thì cặp chim tước đã
ở quá lâu trong bồn tắm.
Trong nỗi kinh hoàng, anh nhấc cái lồng tắm ra khỏi nước. Cặp chim
nằm trong sàn lồng như đám giẻ ướt. Khi anh nhấc chúng lên, chân chúng
co rúm lại.