- Ba lô con cóc.
- Ừ! Một mẩu tuổi trẻ của tôi đấy! Thế còn kia? - Bàn thờ. Thờ ai
đấy ạ? - Thờ ân nhân của tôi! Thế bên cạnh nó là cái gì?
- Cái mũ cối.
- Ừ!
Một tợp rượu lăn tròn xuống cần cổ. Ông nhìn lửa bếp, tư lự:
- Ân nhân của tôi đã để lại cho tôi cái nghề và ngôi nhà giữa
rừng này. Ông làm gác rừng. Ngày còn trẻ, trong một lần đi tuần
rừng, ân nhân của tôi gặp trận mưa lớn dai dẳng. Lũ to nhốt ông
mấy ngày trong một khe đá. Gác rừng nhưng ông lại là người dưới
xuôi mới lên nên chưa thuộc hết được lá rừng. Biết mình ăn nhầm lá
cây và bị ngộ độc - ông vội phát cành đánh dấu rồi dồn sức leo lên
một chạc cây cao. Ba ngày sau đội kiểm lâm tìm thấy ông. Mất hai
ngày để xuống tới bản - ông chỉ còn thoi thóp. Các già làng lắc đầu
nhìn rồi nói nhỏ với nhau: “cứu được người thì héo mất “cái con
trai”. “có chữa không ạ?”. “có chứ!”. Kể từ đó, người ta gọi ông bằng
cái tên “ông Héo”.
Trở thành người chẳng nguyên là đàn ông, cũng chẳng phải đàn
bà, ông Héo đau đớn trở lại nơi đã gặp nạn rồi nhờ người dựng ngôi
nhà này. Ông muốn sẽ không còn ai phải đi tuần xa như ông rồi nhỡ
lại gặp nạn như ông. Mỗi tuần trăng dưới bản lại cho người mang
gạo, muối lên cho ông. Còn ông đau ốm hay cần gì thì đốt lên một
đống lửa lớn, khói sẽ gọi người tới.
Rồi một hôm ông Héo gặp một anh lính, lính sao xanh đang
nằm bất tỉnh bên suối. Đũng quần anh rách toạc, bê bết máu. Đau
đớn làm anh ta mất phương hướng. Đói, mất máu, khát - anh ta đi
tìm nước.
Trần truồng tỉnh dậy trong ngôi nhà này, chàng trai hai mươi
tuổi khóc như trời sập. Thế là hết!
Không hỏi một câu nào vì nhìn vết thương xé đôi cái túi đựng
hương đời đàn ông - giờ đây đang hoác ra, lép kẹp là ông biết anh
lính này người miền xuôi. Người đồng rừng - không ai đứng dạng