tôi, rằng ta phò không lầm người. Ta có tin được người không, hỡi
Hồng Nhậm?
...
“... Nhưng họ mạnh ta yếu, viện tuyệt, thế cùng, tướng võ sợ
địch bỏ chạy tứ tung, quan văn thấy nguy đua nhau đào tẩu. Tấc
lòng tôi đau như dao cắt, một tay mình khó nổi chống ngăn. Làm
tướng muốn mà không phải tài, than thân sống thật vô ích...”
. . . Ùng! Ùng! Oành. Đạn đại bác giặc đã với được vào thành.
Đằng xa, đầu rồng kèo gỗ cháy lên hừng hực.
Nhìn quanh. Quân đâu? Tướng đâu? Bữa nao vừa cùng nhau
cắt máu hòa rượu. Đức ông siết chặt chuôi kiếm, thanh đoản kiếm
mà Thánh thượng ban như bù cho việc đã xử lố với ông vụ Hoàng
Tập. Lưỡi thép này đã khướt qua đầu những ngón tay, từ ông, rồi
Tuần phủ Hoàng Hữu Xung, đề đốc Lê Văn Trinh, Bố chánh Phan
Văn Tuyển, Án sát Tôn Thất Bá và Lãnh binh Lê Trực. Ngần ấy tâm
can tỏ quyết tâm tử thủ. Máu thì đỏ như nhau, mà ai tài biết hết mùi
riêng? Giờ mới là lúc thấy dạ nhau đây.
Tuyến thủ vẫn vững. Còn người, còn trí, còn tâm, còn trụ lại
được. Lính báo, đã phá được ba tàu giặc, Phú Lãng ngừng đổ quân
vào bờ, hai mũi công cũng phải ngừng tiến.
...
“... Thành mất không sao cứu được, thật hổ với nhân sĩ Bắc
thành lúc sinh tiền. Thân chết có quản gì, nguyện xin theo Nguyễn
Tri Phương xuống đất. Quân vương muôn dặm, huyết lệ đôi
hàng...”.
... Thánh chỉ rằng: Bỏ Hà Thành, hàng phục Phú Lãng. Ư hư!
Vậy là rõ rồi! Sẽ không có viện binh nữa đâu! Bao năm gánh gồng,
củng cố, kinh lý, biên phòng mà triều đình không thuận cũng bằng
không. Thôi thì gạn chút lực tàn! chỉ thương đám binh, đám dân
cùng ta tử thủ. Nhìn mắt họ, chẳng ai muốn hàng đâu. Kẻ non gan
đã chạy hết. Ta tin người còn đây. Còn họ, còn thành.
Tin về. Tôn Thất Bá hàng giặc, chỉ vẽ cách bố trận trong thành.
Đại bác Phú Lãng rót đâu trúng đó.