mặc dù ngọt lắm. Tôi thong thả ăn mấy miếng, định thôi, bỗng vô tình,
nhìn thấy cái Thuận đứng xa xa ở góc nhà, thì tôi không có can đảm để bỏ
bát đũa xuống được nữa. Xem điệu bộ con bé, thấy nó vừa sợ vừa mong,
chắc sợ là sợ nấu không được khéo, và mong là mong tôi ăn thấy ngon. Tôi
nghĩ bụng, giá mà mình bỏ lại già nửa bát bỏ đấy, chắc là nó buồn tủi lắm.
Thế rồi tôi cương quyết há to cổ họng ra, đổ vào, ăn nhanh gần bằng lão
Trường Phú. Do đó, tôi mới biết được cái khổ tâm phải ăn gượng. Nhớ lại,
chỉ có hồi còn bé phải uống hết bát thuốc giun khuấy với đường mới khổ
tâm như thế mà thôi! Nhưng tôi vẫn không oán thán chút nào, bởi vì cái nụ
cười mà con bé cố giấu đi khi nó đến thu dọn mấy cái bát không, cũng đã
thừa để bù đắp lại nỗi khổ tâm của tôi rồi. Cho nên mặc dù hôm đó, tôi no
kềnh, không ngủ ngon giấc, lại nằm mơ toàn những điều quái gở, tôi vẫn cứ
cầu mong cho con bé được hưởng hạnh phúc trọn đời, và mong mỏi thế
giới sẽ biến đổi để con bé được sung sướng hơn. Nhưng những ý nghĩ đó
chẳng qua là dấu vết của những mộng cũ của tôi ngày trước mà thôi, chứ
ngay lúc đó, tôi đã cười mình khéo hão huyền, và rồi cũng quên bẵng đi
mất.
Trước kia, tôi chưa biết chuyện cái Thuận vì cái "nơ" nhung mà bị
đòn, nay nhân bà cụ nói cho biết, thì cũng chợt nhớ đến chuyện ăn bột kiều
mạch, rồi đâm ra vồn vã đi tìm mua "nơ" cho được. Tìm tất cả các hiệu ở
Thái Nguyên, không đâu có. Mãi về đến Tế Nam...
Ngoài cửa sổ, có tiếng ào ào. Tuyết đọng trên cành cây sơn trà cong
oằn bỗng đổ xuống. Cành cây lại vươn thẳng lên để lộ những cụm lá đen
thẵm, bóng loáng và những bông hoa màu đỏ chói. Nền trời màu chì càng
sẫm lại. Chim kêu chíu chít. Có lẽ sắp tối rồi, mặt đất tuyết lại phủ dày,
chúng kiếm không ra cái ăn, phải bay về tổ sớm hơn ngày thường. Anh ta
nhìn ra cửa sổ một hồi, quay lại uống một chén rượu, lại rít mấy khói thuốc,
rồi nói tiếp.