ghế.
“Cháu biết cháu còn trẻ và ngốc nghếch, thưa bà; và cháu sẽ làm bất cứ
điều gì trên đời này để không làm tổn thương tới những cảm giác của bà.
Dĩ nhiên là cháu cũng biết rằng hầu hết tất cả chúng ta đều không khôn
ngoan sắc sảo cho lắm. Nhưng bà đã nói tới cái chết; và cháu nghĩ, xin bà
tha thứ nếu cháu nói thế, cháu thà là chết khi – ý cháu là khi mà cháu phải
chết. Bà biết đó, sẽ là một điều rất đáng buồn đối với cháu nếu nó đến sau
khi mẹ cháu đã – ý cháu là nếu mẹ cháu không thể chia sẻ điều bí mật đó.
Và ngay cả khi đó… Vì sao tất cả chúng ta không chia sẻ nó? Cháu thấy là,
thật vậy, có rất ít thời gian trên đời này để trở nên khôn ngoan hơn. Nhưng
khi bà nghĩ tới những con người đã…”
“Cháu tới đây, cháu cưng,” bà Cheyney cắt ngang, “là để trả lời những
câu hỏi, chứ không phải để hỏi. Ta không thể bị mệt quá. Khi đó ta sẽ
không ngủ được. Nhưng chắc chắn là cháu đã đủ lớn để biết rằng không có
người nào trong một ngàn người, không, trong cả một trăm ngàn người, lại
hy vọng về việc trở nên khôn ngoan trừ phi anh ta sống cho tới ngày tận
thế.”
Bà nhích về phía trước một chút. “Cứ cho là, cháu của ta, sự từ chối của
cháu có nghĩa là bí mật này sẽ mất đi cùng với – với ta? Trừ phi,” giọng nói
chuyển thành một tiếng thì thào, “trừ phi cháu bằng lòng chia sẻ nó? Hử,
lúc đó thì sao?”
Alice nhận ra đôi mắt cô đang dán vào bà cụ như một con chim dán mắt
vào một con rắn. Và câu trả lời duy nhất của cô là một cái lắc đầu mạnh
mẽ. “Ồ,” cô kêu lên, và đột nhiên òa lên khóc, “cháu không thể nói với bà
rằng cháu rất biết ơn về tất cả sự tốt bụng của bà, và cháu thật đau khổ khi
phải nói điều này. Nhưng xin bà, bà Cheyney, cháu có thể đi ngay bây giờ
không? Cháu cảm thấy một điều thật đáng sợ sẽ xảy ra nếu cháu ở lại đây
dù chỉ thêm một phút.”
Dường như bà cụ đang vật vã trên chiếc ghế, như thể đang cố gắng đứng
lên; nhưng sức lực của bà không cho phép. Bà giơ bàn tay đeo găng giống