nông, với một cái chén đựng trứng lật úp nằm ở giữa. Bà nhìn nó rồi cầm
con dao làm bếp lên và, khéo léo như một người thợ cạo, liếc lưỡi dao
quanh rìa của cái dĩa để cắt bỏ những phần thừa. ‘Cháu có thích một con
búp bê không, cháu cưng?” Bà nói.
“Không, cám ơn bà,” bé Maria nói, hơi nghiêm nghị, vì không muốn đề
tài bị thay đổi. “Cháu đã kể cho bà nghe về con ruồi,” nó lặp lại, “thế mà
dường như bà không hề chú ý gì tới nó.”
Bà đầu bếp nhấc con dao cắt bột lên, quay gương mặt tròn của bà lại và
nhìn cô gái bé tí. Bà có một đôi mắt nhỏ, linh hoạt màu xanh trời nhạt, còn
mái tóc bên dưới cái mũ trùm của bà thì vàng hoe như màu của rơm mới
cắt. Đó là một gương mặt hơi phinh phính, thế nhưng có nét. “Thế bà có thể
hỏi ý của cháu là gì hay không?” bà nói, nhìn bé Maria.
‘Ý cháu là,” Maria nói một cách bướng bỉnh, “cháu đã nhìn thấy một con
ruồi. Nó đậu trên lớp sơn của cánh cửa phòng khách, và nó chỉ lẻ loi một
mình.”
“Ở đâu nào?” Bà Poulton nói, cố nghĩ ra điều gì đó để nói.
“Cháu đã nói là trên cánh cửa.” Maria nói.
“Vâng, nhưng ở chỗ nào trên cánh cửa?” Bà đầu bếp khăng khăng.
“Ở bên phía nó bị cắt và có một phần khác gắn vào.”
“Ồ, trên thanh dọc của khung cửa [jamb],” bà Poulton nói.
“Mứt à! [jam]” Bé Maria nói. ‘Làm sao mứt lại có thể ở trên cánh cửa?”
‘Ồ, bà không chắc về chuyện đó, cô bé hay ăn vụng à,” bà đầu bếp nói.
“Nhưng ý bà nói là jamb, có nghĩa là thanh dọc của khung cửa, chí ít là bà
nghĩ rằng nó đánh vần khác hơn. Thế con ruồi - những con vật xấu tính ấy-
đang làm gì?”
Bé Maria nhìn bà. “Đó là điều mà mọi người nói,” bé nói. “Con ruồi của
cháu không làm bất cứ điều gì xấu cả.” Thật ra điều này không chính xác