lắm, và cảm thấy hơi khó chịu về nó, bé Maria nhận xét với một giọng rất
khẽ. “Nhưng giờ thì cháu đi đây, cám ơn bà.”
“Đúng đấy,” bà đầu bếp nói. “Hãy cẩn thận và chú ý tới những bậc thang
nhé, cháu yêu quý của bà.”
Bé Maria liếc nhìn những con tò vò đang bay lượn trên cái chai, liếc nhìn
bà Poulton, ngọn lửa trên mặt bếp, những cái úp đĩa treo trên tường. Rồi bé
đi ra cửa.
Bé vẫn lưu ý tới những bậc thang nhà bếp nhiều như thường lệ, dù bé hơi
phẫn nộ sau cuộc trò chuyện với bà đầu bếp. Khi lên tới đầu cầu thang, bé
tiếp tục đi dọc theo tòa đại sảnh trơn trợt, đi qua cái đồng hồ của ông nội,
với gương mặt vầng trăng màu trắng trên nền xanh của những chiếc kim, đi
qua cái bàn với chậu quỳ thiên trúc hoa màu hồng thắm bên trên, rồi trèo
lên cái cầu thang rộng, hơi cạn, lần lượt vịn vào từng chiếc tay nắm của lan
can, nhưng cố bước gần vào khoảng giữa tấm thảm cầu thang mềm có in
hình những bông hồng.
Lên tới đầu cầu thang, bé đi tới một căn phòng mà bé biết bé sẽ tìm thấy
một người khách đang cư ngụ trong nhà. Tên của ông là Kittleson. Ông là
một mục sư, và sáng thứ Bảy ấy ông đang viết một bài giảng đạo cho ngày
Chủ nhật. Bài giảng của ông có tựa là “Hãy xem xét những cây hoa loa kèn
trên cánh đồng… Chúng không lao động mà cũng không dạo chơi.”
Sau khi sờ soạng cái tay nắm cửa một lúc, bé Maria đẩy cửa mở ra và
nhìn vào. Ông cụ đang ngồi đó, trong một cái ghế da tròn, bộ râu bạc phơ
rũ xuống ngực, tờ bài giảng của ông đặt trên quyển sổ giấy thấm trước mặt
ông, bên cạnh là một cái giá để bút mực bằng đồng. Đôi môi ông động đậy
trong lúc ông viết. Nhưng khi nghe tiếng cửa mở ông dừng bút, quay cái
đầu đang cúi xuống lại và nhìn bé Maria qua đôi kính gọng vàng.
“Ồ, ồ, cháu thân mến, thật là một cảnh tượng rất thú vị, ông có thể làm gì
cho cháu nào?” Ông nói. Ông là một trong những quý ông lớn tuổi đặc biệt,
không bao giờ lưu tâm tới việc bị cắt ngang thậm chí cả khi họ đang viết
những bài giảng đạo.