để bán hàng. Tom quan sát cả hai người; ngắm nhìn những củ khoai và
những nhánh bạc hà được bỏ lên cân; ngắm nhìn một cỗ xe với một con
ngựa đốm xám to lớn đi ngang, kéo theo thùng xe chất đầy gạch, người
đánh xe da ngăm ngồi trên một cái bao tải trên cùng. Sau đó, Alice bước trở
vào phòng khách, và anh tiếp tục kể cho chị nghe về hai con chim và cái
ao.
“Lạy Chúa, thật kì lạ, cậu chủ Tom ạ.” Alice nói. “Thế sáng hôm ấy cậu
đã đi đâu?”
Tom đáp rằng anh đã tới nghĩa trang.
“Cậu biết không,” chị nói với một giọng khe khẽ như sợ có người nghe
thấy. “Cậu không nên tới đó quá thường xuyên. Điều đó không tốt cho cậu.
Và Joe nói rằng… cậu chủ thân mến ạ, cậu không thể tin là tôi hạnh phúc
thế nào đâu khi sống trong cái tiệm nhỏ này, dù tôi không bao giờ quên
Ngôi nhà cha xứ và lòng tốt của người mẹ thân yêu của cậu. Nhưng Joe bảo
rằng người ta không nên suy nghĩ mãi về những chuyện như thế. Ý của anh
ấy là không nên tiếp tục mãi. Thế giới này sẽ xoay chuyển thế nào, anh ấy
nói, nếu tất cả chúng ta cứ ngước mắt nhìn những đám mây suốt cả ngày.
Tôi trông cậu có vẻ gầy guộc giơ xương hơn trước, dù có lẽ cậu đang nhổ
giò – cao lên khá nhiều rồi đấy.”
“Nhưng câu chuyện về hai con chim có vui không?” Tom hỏi.
“Sao?” Alice nói. “Vui cái gì?”
“Sao à.” Tom nói. “Chúng không phải là những con chim bình thường.
Bây giờ em không chắc chúng có phải hoàn toàn là những con chim đang
sống hay không nữa, dù có thể chúng đến từ ngoài biển. Vì sao chúng
không bay đi khi em tới gần? Chúng nhìn thấy em rất rõ. Và chị nghĩ xem,
tại sao em cứ mãi suy nghĩ về chúng?”
“Lạy Chúa tôi!” Alice nói. “Những câu hỏi của cậu! Và tất cả đều là vì
sao! Cậu không thay đổi chút nào về điểm này, cậu chủ ạ.”