nước uống. Một niềm thất vọng não nề xâm chiếm tôi. Tôi ôm cổ con ngựa
ấy và khóc nức nở.
Ông Radnai nắm bàn tay tôi và kéo tôi trở lại vào cửa tầng hầm. Ông vuốt
nhè nhẹ đầu tóc tôi và nói:
- Tội nghiệp cô bé! Tội nghiệp thế hệ của cô bé! Thật đáng tiếc!
Tôi dừng chân lại nơi bậc cấp đầu tiên:
- Không, tôi không thể trở lại trong hầm – tôi nói với ông Radnai –
hầm sẽ sập và sẽ vùi lấp chúng ta.
- Cô đừng sợ gì cả, bây giờ sẽ không còn xảy ra điều đó nữa. Cô hãy
đi xuống đi…
- Ông không sợ sao? – tôi hỏi ông một cách đột ngột.
- Có chứ, tôi sợ chớ! Tôi sợ sẽ bị chết ngộp, tôi không biết gì về gia
đình tôi hết và mạng sống của tôi tuỳ thuộc tính bất thường của vài người
bị bệnh loạn thần kinh. Không biết khi nào họ sẽ tố giác tôi, hay để lộ gốc
Do Thái của tôi vì một lời nói vụng về?
- Ông đừng sợ điều đó – tôi nói với ông ta – không có ai nghĩ đến việc
làm hại ông đâu.
Chúng tôi lặng lẽ đi xuống hầm. Ông Radnai trở lại chỗ cũ của ông và lấy
quyển sách nhỏ trong túi của ông ta. Nhưng tôi để ý thấy thay vì đọc, ông
nhìn đăm đăm về phía trước mặt.
Vào khoảng sáu giờ, người ta trở về hầm và nói rằng họ đã không tìm ra
được đường thoát hiểm của toà nhà bị sập. Một thanh niên và một thanh nữ
đi theo họ. Thanh nữ ấy khoảng hai mươi hai, hai mươi ba tuổi, cô ta ôm
cái áo lót bông, run lập cập và nắm chặt bàn tay chàng trai. Chúng tôi quan
sát hai người mới đến ấy, tự hỏi họ là ai và họ muốn gì ở chúng tôi?
Pista nói:
- Hai người này ở tại chung cư Vitez Utca. Lúc chuyến tàu chở đạn nổ,
họ không có ở nhà vì bận đi lấy nước, họ là hai người duy nhất thoát chết…
Họ phải ở lại đây, vì nói cho cùng, họ không thể lang thang ngoài đường.
Tôi mong cô bác ở đây sẽ đùm bọc họ… Về phần tôi, tôi sẽ xoay sở để tìm
lương thực cho họ.