ấy. Nhưng cái máy đồng hồ điện hỏng, tôi bấm nút mãi, nhưng không có
hiệu quả, hành làng chìm trong cảnh tối tăm hoàn toàn, dễ sơ; như một cái
đầm lầy sẵn sàng nhận chìm người ta.
- Em sẽ không bao giờ dám đi tới căn phòng với cái hành lang tối thui
như thế này – tôi khẽ nói với Georges như thể sợ lũ chuột cống nghe được.
Georges có một ý nghĩ tài tình:
- Nếu có một tờ báo, chúng ta có thể đốt lên làm một cái đuốc…
Nhưng tìm đâu ra một tờ báo? Từ tám giờ tối, tất cả kiốt chung quanh đây
đều đóng cửa. Chúng tôi đợi có một người nào khác ở cùng tầng trệt này
trở về để chúng tôi cùng đi với họ. Nhưng tối chủ nhật tất cả đều đi vắng.
chúng tôi lại phải đi tàu điện ngầm đến tận sân ga Saint Lazare mới tìm
mua được một tờ báo. Một giờ sau, chúng tôi trở về toà nhà và Georges đốt
tờ báo làm đuốc. Cuối cùng chúng tôi đã tới được cửa phòng của tôi.
Ngày hôm sau tôi tìm một cái phòng nhỏ khác. Tôi đã quyết định hỏi các
người gác cổng cho những toà nhà giàu có, trong đó chủ nhà có thể có một
vài phòng cho thuê bớt. Sáng hôm ấy, một buổi sáng thứ hai, không khí bão
hoà mùi ét xăng. Tôi đi theo hướng tới lâu đài Trocadero và trên đường đi,
tôi đã đếm được ít nhất sáu trạm bán xăng, ở đó các nhân viên đang bơm
xăng vào xe cộ. Tôi đi ngang qua các trạm xăng ấy, lấy khăn tay bịt mũi lại
và nín thở. Nhưng khi tôi không còn ngửi thấy mùi xăng, tôi lại tưởng
tượng có nó và tôi lại buồn nôn dữ dội.
Tôi băng ngang qua quảng trường Trocadero, đi vào một toà nhà lớn. Tôi
đột ngột cảm xúc vì các viên đá lát bằng cẩm thạch trắng và tôi gõ nhẹ vào
cửa kính, có che một tấm màn lụa vàng đậm. Một giọng nói đàn bà chói tai
nhức óc, trái ngược với khung cảnh lộng lẫy của toà nhà hét lên:
- Cái gì thế?
Làm sao có thể trả lời vắn tắt, xuyên qua một cửa kính có che màn?
Tôi trả lời:
- Thưa bà, tôi có một điều xin hỏi bà…
Tôi nghe có tiếng cằn nhằn sau tấm màn, những tiếng khó hiểu… bên trong
phòng gác cổng.
Cuối cùng, với một tiếng động chát chúa, một người đàn bà mở cửa ra và