đứng, rải rác lá thông và lá rừng mục nát.
Chúng tôi đi hàng một. Cái dù đen của cha xứ đu đưa ở giữa những cây cối
như một cây nấm. Nước kêu bì bõm trong giày của tôi và tôi nắm tay
Georges đang đi sau lưng.
Trời đột ngột bớt mưa và tôi có cảm giác hình như dân làng, đứng tựa cửa
sổ, đang nhìn chúng tôi một cách chăm chú. Chúng tôi dễ bị người ta trông
thấy xiết bao, chúng tôi giống như những con kiến lớn đang leo núi một
cách vụng về, được hướng dẫn bởi một cái dù.
Khi chúng tôi lên đến đỉnh núi, mưa đã dứt hẳn và dưới chân núi, chúng tôi
thấy trải dài trước mắt một đồng cỏ mênh mông và ở rất xa, chúng tôi
thoáng thấy một nông trại, còn bị bao phủ trong sương mù. Chúng tôi còn
đoán biết được những con bò sữa, nhỏ như những giọt nước.
Vị linh mục già nói với chúng tôi:
- Khi đến nông trại ấy, các con đừng sợ. Những người ở đó rất tốt
bụng. Gần cái trại ấy các con sẽ thấy một con đường sẽ dẫn các con vào
trong một khu rừng nhỏ. Các con cũng sẽ thấy một nhà thờ nhỏ, nơi đó cha
cử hành lễ Misa vào ngày chủ nhật, cứ hai tuần một lần và sau cái nhà thờ
nhỏ ấy, các con sẽ có đường quốc lộ, một con đường bê tông. Đó đã là
nước Áo. Đi theo con đường ấy, các con sẽ thấy một ngôi làng, từ đó có
một chuyến tàu lửa đưa các con đến Kufstein.
Linh mục quay gót ngay lập tức, không đợi chúng tôi nói lời cám ơn và
ngài biến mất sau các cây cối.
Thế là chúng tôi đang ở bên một bờ thế giới mà chúng tôi còn chưa biết, cô
độc, chỉ có hai chúng tôi với nhau, phó mặc cho may rủi ở biên giới vô hình
chia cách hai quốc gia.
- Nào, chúng ta đi thôi – Georges nói với tôi và chúng tôi bước di
trong cỏ cao ướt sũng nước, làm cho hai chân tôi lạnh cóng. Nhưng vì sao
sự lạnh lẽo lại làm cho tôi khó chịu được trên con đường sẽ đưa tôi đến gặp
bố mẹ tôi?
tôi hân hoan với ý nghĩ đã lập được một thành tích lớn. Tôi nhìn trước chân
tôi. Tôi không muốn vấp váp một cách vô ích. Tôi nghĩ đến đứa con của tôi
mà đây là cuộc hành trình đầu tiên của nó.