nghệ thuật cho lắm, Roland, không định xúc phạm đâu.” “Ê, Benny,”
Roland nói như thanh minh, “tôi đâu có đến trường để học cái này hay bất
kỳ thứ gì khác, nếu cậu không phiền nhớ hộ cho.” Thế nhưng bác ta vẫn
tiếp tục kích sang trang tiếp theo, và lại kéo xuống, rồi kích sang trang tiếp
theo và kéo xuống. Cứ khi nào Roland lướt qua một bức ảnh mà Benny
thích, Benny lại ghi số thứ tự của bức ảnh ra một mảnh giấy. Khi anh ta đã
có đủ số ảnh, anh ta đá đít Roland ra khỏi văn phòng của mình và gọi cho
bộ phận lễ tân của nhà cung cấp dịch vụ ảnh để họ gửi qua cho anh ta lựa
chọn. Đó là lúc anh ta đi ăn trưa. Và rồi, khi anh ta quay trở về từ quán ăn
Potbelly, đó là lúc bắt đầu lắp ráp mẩu quảng cáo lại với nhau, anh ta nhấc
điện thoại lên gọi xuống bộ phận bảo vệ đề nghị cho gặp Roland.
Khi Roland quay trở lại văn phòng của Benny, bác ta sung sướng không
để đâu cho hết khi được quay lại và cho đôi chân của mình nghỉ ngơi một
lúc. “Cậu có biết mỗi ngày tôi đi bộ vòng quanh tòa nhà này bao nhiêu dặm
không?” bác ta hỏi Benny. “Bao nhiêu?” Benny nói. “Tôi không biết,” bác
ta nói. “Tôi không bao giờ đếm cả.” “Bác nên dùng một cái máy đếm
bước,” Benny nói. Hai tiếng đồng hồ sau họ đã hoàn thành phác thảo của
một mẩu quảng cáo mà Joe Pope yêu cầu ngay từ buổi sáng. Đến sáng mai
thì cái trò trì hoãn nhắp chuột của Benny cũng kết thúc rồi và khi đó anh ta
có thể hoàn thành nốt những công đoạn cuối cùng cho mẩu quảng cáo. Anh
ta đã làm như thế đấy. Cả một ngày liền không một cái nhắp chuột nào đối
với Benny. Chỉ có điều anh ta đã phá hỏng nó lúc năm giờ kém mười lăm
khi tự cho phép mình kiểm tra tỉ số của trò bóng chày ảo trên mạng.
“Các anh biết không,” Amber Ludwig nói, “tôi thấy câu chuyện này
chẳng có gì là hay ho cả. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Tom Mota quay lại đây
và một trong những nhân viên bảo vệ của chúng ta lại đang ở trong phòng
làm việc của anh dựng quảng cáo?” cô ta hỏi. “Tôi dám chắc là điều đó
khiến tôi cảm thấy thực sự an toàn, Benny.”